Có thể khẳng định, Việt Nam là nước có đầy đủ cơ sở lịch sử mang tính pháp lý cao, chứng minh được chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần Hoàng Sa và Trường Sa. Trong chiều dài lịch sử dân tộc, từ xưa nhân dân ta đã tổ chức các cuộc vượt biển hướng ra Hoàng Sa và Trường Sa để săn bắt sản vật và khoáng vật; đồng thời thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này một cách thật sự, liên tục và hòa bình từ nhiều thế kỷ qua. Điều này được khẳng định thông qua các chứng cứ lịch sử từ tài liệu lưu trữ, đây là nguồn tư liệu chính xác và đáng tin cậy nhất, là cơ sở pháp lý khẳng định Việt Nam đã hành xử, xác lập chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hiện nay, trong kho sử liệu, còn rất nhiều tài liệu, tư liệu lưu trữ có giá trị, ghi chép cụ thể về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã thu thập, thống kê từ nguồn tài liệu, tư liệu lưu trữ, từ những công trình biên khảo của các sử gia Việt Nam dưới các triều đại phong kiến. Qua đó, góp phần minh chứng một cách chân xác nhất về chủ quyền của Việt Nam liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1. Các công trình biên khảo gồm:
– Phủ biên tạp lục: là công trình nghiên cứu, biên khảo của nhà bác học Lê Quý Đôn. Trong thời gian ông được vua Lê – chúa Trịnh cho giữ chức Hiệp trấn Tham tán quân cơ Thuận Hóa, trấn nhậm hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam (ngày nay thuộc các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định). Lê Quý Đôn đã ghi chép tất cả những điều tai nghe mắt thấy trong thời gian làm quan ở đó. Phủ biên tạp lục có giá trị nhiều mặt: sử học, địa lý, xã hội, kinh tế, văn học,… Có thể nói đây là một tác phẩm văn hóa sử Việt Nam. Trước Lê Quý Đôn chưa có tác giả nào có tác phẩm viết đầy đủ về hai xứ Thuận – Quảng như vậy. Tác giả bộ Phủ biên tạp lục cũng cho biết ông đã nghiên cứu bằng cách trực tiếp gặp gỡ các thân hào là nhân sĩ ở mỗi địa phương ông đi qua, đồng thời khảo cứu những tài liệu của chúa Nguyễn khi ấy.
Bản đồ biển Đông do Joan Blaeu người Hà Lan vẽ năm 1668 và An Nam đại quốc hoạ đồ do Giáo sĩ Jean Taberd vẽ năm 1838
Bộ sách gồm 6 quyển, trong đó quyển thứ 2ghi chép về hình thế núi sông, thành lũy, trị sở, đường sá, bến đò, nhà trạm hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, đã miêu tả chi tiết về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam mà trước đó chưa có nhà nghiên cứu nào viết về Hoàng Sa, Trường Sa tường tận như Lê Quý Đôn. Sách Phủ biên tạp lục đã được dịch ra chữ quốc ngữ, xuất bản tại Sài Gòn, hiện đang lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, tại thành phố Hồ Chí Minh, có ký hiệu Vv.4096, năm 1972.
– Lịch triều hiến chương loại chí và Hoàng Việt địa dư chí: đây là 2 bộ sách do Phan Huy Chú (1782 – 1840) nghiên cứu biên soạn, thể hiện sự công phu, tỉ mỉ, khoa học; các bộ sách này đã được chính quyền trung ương nhà nước phong kiến triều Nguyễn công nhận và chophép khắc in nhiều lần.
Lịch triều hiến chương loại chí: có 49 quyển, chia làm 10 chí (hay 10 phần). Trong đó, quyển 5 viết về sự khác nhau về phong thổ của các đạo, có phần chép về phủ Tư Nghĩa đã nêu rõ về đảo Hoàng Sa.
Hoàng Việt địa dư chí (năm 1833):đây là một bộ sách quen thuộc được giới nghiên cứu chú ý nhiều. Bản khắc in năm Nhâm Thân (năm 1872) tại Đề Ngạn (Chợ Lớn) có lời giới thiệu của Duy Minh Thị. Trước năm 1975, sách tàng trữ tại Viện Khảo cổ Sài Gòn, có ký hiệu VĐ.7, đã được Hoàng Văn Hòe dịch sang tiếng Việt. Sách hiện nay lưu trữ tại Thư viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh với kí hiệu HNv 192-193.
2. Hệ thống bản đồ:
– Hồng Đức bản đồ: đây là bản đồ vẽ rõ địa thế xứ Đàng trong cuối thế kỷ 18, từ Đồng Hới đến biên giới Cao Miên, do Đoàn Quận Công Bùi Thế Đạt vẽ dâng lên Chúa Trịnh năm 1774 để phục vụ chiến dịch Nam Tiến năm 1775. Trên bản đồ, Bãi Cát Vàng được vẽ ở ngoài khơi phủ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi).
– Đại Nam nhất thống toàn đồ: vẽ khoảng năm 1838 có ghi Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam nằm phía ngoài các đảo, ven bờ miền Trung Việt Nam.
– An Nam đại quốc họa đồ: trong cuốn từ điển Latinh – Việt Nam của Giám mục Jean Louis Taberd xuất bản năm 1838 vẽ một phần của Paracel hay Cát Vàng thuộc khu vực quần đảo Hoàng Sa hiện nay.
An Nam đại quốc họa đồ
Trong số các bản đồ này, bản đồ An Nam Đại Quốc họa đồ là có giá trị vì thông tin ghi trên bản đồ rất chính xác và gần như trùng khớp với thông tin địa lý hiện tại ở biển Đông.
3. Văn bản hành chính của triều Nguyễn liên quan đến Hoàng Sa:
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, triều Nguyễn đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc thống nhất, mở mang bờ cõi, chống lại các cuộc xâm lược của lân bang, giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ dưới các đời vua như: Gia Long (1802-1819); Minh Mạng (1820-1840); Thiệu Trị (1841-1847)… Rất nhiều những tư liệu lịch sử, những văn bản hành chính của triều Nguyễn thể hiện cụ thể và rõ ràng việc hành xử chủ quyền và tính pháp lý của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đó là những bản “tấu, sớ” đã được vua “ngự phê” hoặc “ngự lãm” thường gọi là tài liệu Châu bản([1]). Đây là một loại hình tài liệu rất quý và có giá trị, làm sử liệu cơ bản cho việc biên soạn các bộ Chính sử của triều Nguyễn. Giá trị của tài liệu Châu bản trong việc nghiên cứu lịch sử cận đại, đặc biệt là lịch sử triều Nguyễn vẫn được xem là kho tàng sử liệu vô giá, khẳng định tính “chân thực” của lịch sử, dù trải qua những biến thiên của thời gian.
Hiện nay còn 16 Châu bản được ban hành dưới thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Bảo Đại, gồm những “tấu” của đình thần và “dụ” của vua về việc cử người đi đo đạc, vẽ bản đồ, đi thám xét ở Hoàng Sa, việc thuyền buôn nước ngoài cầu viện khi gặp nạn tại Hoàng Sa. Trong đó, triều Minh Mạng có 12 Châu bản bao gồm: Minh Mạng năm thứ 11 (1830); Minh Mạng năm thứ 14 (1833); Minh Mạng năm thứ 16 (1835); Minh Mạng năm thứ 17 (1836); Minh Mạng năm thứ 18 (1837); Minh Mạng năm thứ 18 (1837); Minh Mạng năm thứ 19 (1838) có 02 Châu bản…; dưới thời vua Thiệu Trị có 02 Châu bản vào năm thứ 7 (1847); dưới thời vua Bảo Đại có 02 Châu bản vào năm thứ 13 (1939).
4. Tài liệu Mộc bản triều Nguyễn khắc về Hoàng Sa và Trường Sa:
Mộc bản sách Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 10, mặt khắc 24 khắc về việc đội Hoàng Sa gồm 70 người dân xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa tìm lượm hóa vật, năm Giáp Tuất (1754), đời chúa Nguyễn Phúc Khoát
Như chúng ta đã biết, tài liệu Mộc bản triều Nguyễn là một loại hình tài liệu đặc biệt, quý hiếm, không chỉ ở Việt Nam, mà còn hiếm có trên thế giới. Tài liệu Mộc bản được sản sinh và hình thành trong quá trình hoạt động chủ yếu của triều đình nhà Nguyễn, đặc biệt thông qua hai cơ quan pháp lý công quyền, đó là Nội các và Quốc Sử quán. Do vậy, giá trị lịch sử được phản ánh trong Mộc bản là những cứ liệu có tính xác thực cao, là bằng chứng thép vượt thời gian ghi chép về các sự kiện xảy ra trong quá khứ. Việc hành xử chủ quyền của người Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được nhiều thế hệ người Việt kế thừa và ghi lại cụ thể, thông qua từng nét khắc; thể hiện ý thức về chủ quyền biển đảo, tâm huyết và sự trân trọng đối với lịch sử dân tộc. Từ việc thăm dò thủy trình, việc tổ chức vượt biển khai thác, đánh bắt sản vật, đến việc cắm mốc chủ quyền, thực hiện nghĩa vụ quốc tế, tất cả đều được ghi chép rất chi tiết trong tài liệu Mộc bản Triều Nguyễn như sau:
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 8, mặt khắc 10 khắc v/v sai người đi đo đạc bãi biển Trường Sa, năm Tân Mão (1711), đời chúa Nguyễn Phúc Chu;
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 10, mặt khắc 24 khắc v/v đội Hoàng Sa gồm 70 người dân xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa tìm lượm hóa vật, năm Giáp Tuất (1754), đời chúa Nguyễn Phúc Khoát;
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 22, mặt khắc 2 khắc v/v lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa, năm Qúy Hợi (1803), đời vua Gia Long.
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 50, mặt khắc 6 khắc v/v đội Hoàng Sa do Phạm Quang Ảnh chỉ huy ra đảo Hoàng Sa để thăm dò, đo đạc đường biển, năm Ất Hợi (1815), đời vua Gia Long;
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 52, mặt khắc 15 khắc v/v sai thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường thủy, năm Bính Tý (1816), đời vua Gia Long;
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 122, mặt khắc 23 khắc v/v đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân 20 người đi thuyền ra đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ, năm Giáp Ngọ (1834), đời vua Minh Mạng;
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 154, mặt khắc 4 khắc v/v dựng đền thờ thần ở đảo Hoàng Sa – Quảng Ngãi, lập một miếu cổ, có tấm bài khắc bốn chữ “Vạn Lý Ba Bình – Muôn dặm sóng êm”, năm Ất Mùi (1835), đời vua Minh Mạng;
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 165, mặt khắc 25 khắc v/vchọn phái biền binh, thủy quân và vệ Giám thành, cứ thượng tuần tháng 2 hàng năm đi ra xứ Hoàng Sa để đo đạc tất cả các hòn đảo lớn nhỏ; dựng một tấm bài gỗ khắc chữ: “Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây để đánh dấu ghi nhớ”;
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 176, mặt khắc 1 khắc v/v triều Nguyễn cứu giúp thuyền buôn Anh Cát Lợi bị vỡ và đắm tại Hoàng Sa, năm Bính Thân (1836), đời vua Minh Mạng;
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 194, mặt khắc 7,8 khắc v/v viên ngoại lang bộ Công Đỗ Mậu Thưởng vâng mệnh phái đi công cán Hoàng Sa, vẽ bản đồ dâng lên, năm Mậu Tuất (1838), đời vua Minh Mạng;
– Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 204, mặt khắc 3,4 khắc v/v các phái viên đi thăm dò đường thủy ra Hoàng Sa gặp, năm Kỷ Hợi (1839), đời vua Minh Mạng;
– Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 207, mặt khắc 25,26 khắc v/v chuẩn y lời tâu cho tỉnh Quảng Ngãi dựng miếu Hoàng Sa một gian ở phía tây nam cồn cát trắng, dựng bia đá cao 1 thước 5 tấc, mặt 1 thước 2 tấc, năm Ất Mùi (1835), đời vua Minh Mạng;
– Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 221, mặt khắc 26 khắc v/v thuê thuyền dân và phái biền binh, thủy quân, giám thành đi ra xứ Hoàng Sa để đo đạc, năm Bính Thân (1836), đời vua Minh Mạng;
– Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 6, mặt khắc 5 khắc về đảo Hoàng Sa nằm ở phía Đông tỉnh Quảng Ngãi;
– Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 6, mặt khắc 18 khắc về đảo Hoàng Sa ở phía Đông đảo Lý Sơn có bãi cát vàng, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa;
– Mộc bản sách Minh Mạng chính yếu, quyển 25, mặt khắc 36 khắc v/v thuyền buôn nước Anh Cát Lợi gặp gió bão ở vùng đảo Hoàng Sa, ghé vào địa phận tỉnh Bình Định, nhà vua sai quan tỉnh tuyên cáo chỉ dụ của triều đình cho họ nghe, đồng thời mở cuộc phát chẩn;
5. Văn bản thời Pháp thuộc:
– Nghị định số 156 – QC ngày 15/6/1932 của Chính phủ Pháp v/v thiết lập Hoàng Sa thành một quận thuộc tỉnh Thừa Thiên.
– Thông Tri ngày 19/7/1933 của Bộ ngoại giao Pháp v/v hải quân Pháp chiếm hữu một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa và phụ cận.
– Nghị định số 4702 – CP ngày 21/12/1933 của Thống đốc Nam Kỳ v/v sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
– Nghị Định số 3282 ngày 5/5/1939 của Toàn quyền Đông Dương Jules Bresvié ký v/v tách Hoàng Sa thành hai quận thuộc tỉnh Thừa Thiên.
6. Văn bản thời Việt Nam Cộng Hòa:
– Sắc lệnh số 143 – NV ngày 22/3/1956 v/v giao tỉnh trưởng Phước Tuy quản lý về hành chính và an ninh lãnh thổ tại Trường Sa.
– Sắc lệnh số 174 – NV ngày 13/7/1961 v/v đặt Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam lấy tên là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang;
– Nghị định số 709 – BNV/HC ngày 21/10/1969 v/v sáp nhập xã Định Hải và xã Hòa Vang, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam;
– Nghị định số 420 – BNV/HCĐP/26 ngày 6/9/1973 v/v sửa đổi việc quản lý hành chính đối với quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
– Tuyên bố của Bộ ngoại giao ngày 21/01/1974 v/v bác bỏ các yêu sách vô lý của Trung Quốc về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
– Sách trắng ngày 14/2/1974 về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa.
………………………….
Những tài liệu, tư liệu, hình ảnh, bản đồ được lưu trữ đã khẳng định một sự thật lịch sử: Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Sự thật đó không chỉ được ghi trong sử sách của dân tộc từ nhiều thế kỷ qua mà cả thế giới đã công nhận từ mấy trăm năm nay. Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo thường xuyên, liên tục và hòa bình, không gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào.
Trải qua bao thế kỷ, Hoàng Sa vẫn mãi là phần máu thịt của Tổ quốc. Chủ quyền ấy được viết nên bằng mồ hôi, công sức và cả xương máu của biết bao thế hệ. Mỗi người dân Việt Nam hôm nay có bổn phận giữ gìn, bảo vệ và khẳng định chân lý bất biến: Hoàng Sa là của Việt Nam!
Phạm Yến
……………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn, phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, bản dịch của Lê Xuân Giáo, 1972);
2. Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú, phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, bản dịch của Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực, 1971);
3. Hoàng Sa – Trường Sa – Lãnh thổ Việt Nam nhìn từ Công pháp Quốc tế (Nguyễn Q. Thắng, Nxb. Tri Thức, 2008);
4. Hoàng Sa – Trường Sa: Hỏi và đáp (Lê Nam Tiến, Nxb. Trẻ, 2011);
4. Châu bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II;
5. Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
([1])Trong các tập Châu bản triều Nguyễn, ngoài tấu, sớ còn gồm cả những bản “Thượng dụ”, “Chiếu chỉ” và một số công văn liên quan khác.