Phong trào chống thuế diễn ra tại Huế vào tháng 4 năm 1908 là một sự kiện lịch sử quan trọng, không chỉ phản ánh tâm lý bất mãn của quần chúng trước gánh nặng thuế khóa và lao dịch, mà còn thể hiện sự trỗi dậy của ý thức dân tộc trong bối cảnh xã hội Việt Nam chuyển mình dưới ách đô hộ thực dân. Trong quá trình khảo sát tài liệu, chúng tôi đã tìm thấy tập báo cáo có đóng dấu tuyệt mật của Công sứ Huế gửi Khâm sứ Trung Kỳ báo cáo về sự kiện này. Nhận thấy đây là một tài liệu quý hiếm, có thể có nhiều thông tin cho đến nay vẫn chưa được công bố. Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bản dịch toàn văn nội dung bản báo cáo này.

Báo cáo chính trị của Công sứ Thừa Thiên gửi Khâm sứ Trung Kỳ năm 1908

“Vào sáng ngày 09 tháng 4, tôi nhận được tin báo từ các cộng sự cho biết rằng một số nhóm đông người An Nam từ nhiều làng ở phía Nam của tỉnh đã tập trung tại các tổng An Cựu và Cư Chánh thuộc huyện Hương Thủy, tổng Dương Nỗ thuộc huyện Phú Vang. Một số nhóm nhỏ hơn đang tụ tập tại An Hòa thuộc huyện Hương Trà, phía bắc Kinh thành.

Theo nguồn tin cung cấp cho biết đại diện của các làng dự kiến sẽ đến Huế vào ngày 10 tháng 4 và tham gia vào các cuộc biểu tình tương tự như những cuộc biểu tình đã diễn ra tại các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.

Ngày 10 tháng 4, nhìn chung khá yên tĩnh, nhưng đến tối tôi được biết rằng những người biểu tình đang tập trung gần thành phố, tại các làng An Hòa, An Cựu, Công Lương và phía sau núi Ngự Bình.

Phủ doãn và Đề đốc xin tôi cung cấp cho họ một số lính (miliciens) để đến gặp những người biểu tình và thuyết phục họ trở về làng. Đề Đốc trở về mà không gặp phải sự chống đối nào.

Phủ doãn đi bằng thuyền tam bản thì bị tấn công bằng đá khi đến gần làng Công Lương. Ông ra lệnh cho lính bắn chỉ thiên để cảnh cáo, nhưng một người dân đã lao xuống nước và tìm cách đánh chìm thuyền tam bản. Người này liền bị Phó quản của lính Giảng bắn một phát súng.

Ngay sau đó, dân làng bắt giữ Phủ doãn, Phó quản, lính Giảng và lính rồi trói họ lại trước làng, bên bờ con rạch. Những tên lính bị đánh đập dã man, còn Phó quản bị tra tấn, họ luân phiên dìm ông ta xuống nước rồi lại để phơi dưới nắng.

Vào buổi sáng, một toán lính dưới sự chỉ huy của viên Cai chính Cauteau đã cố gắng giải cứu tù nhân nhưng không thành. Đến khoảng 10h, vài trăm người biểu tình kéo theo Phủ doãn đến trước văn phòng Tòa Khâm sứ. Cùng ngày hôm đó, hai sứ thần của triều đình và Tham tri bộ Hình được cử đến Công Lương để yêu cầu thả tù nhân cũng bị dân làng giữ lại.

Khi tôi trở về từ Tòa Khâm sứ vào giữa trưa, tôi gặp những người biểu tình tập trung thành từng nhóm hàng trăm người trước các tòa nhà nơi các quan lại tỉnh làm việc. Tôi nói chuyện với họ hơn 1tiếng đồng hồ, khuyên họ trở về làng và gửi yêu sách cho tôi bằng văn bản hoặc cử đại diện trình bày. Tôi cũng cảnh báo với họ rằng, theo quy định của triều đình An Nam thì các cuộc biểu tình đông người sẽ không được lượng thứ, những hành động như vậy bị cấm. Những người biểu tình tuyên bố rằng họ sẽ không rời đi nếu yêu sách của họ không được chấp thuận, thậm chí nếu có người bị giết, họ vẫn sẽ trở lại với số lượng đông hơn.

Sau đó tôi ra lệnh cho lính chỉ được sử dụng roi mây để giải tán họ. Đến 4h chiều, khoảng một nghìn người biểu tình lại tập trung quanh văn phòng Tòa Khâm sứ yêu cầu giảm thuế và bãi chức các quan tỉnh. Phải sau một thời gian dài thương thuyết họ mới chịu rút ra khỏi làng An Cựu vào khoảng 6h tối.

Rạng sáng ngày 12 tháng 4, một đội quân độ chừng100 lính bộ binh hải quân lên đường đến Công Lương để giải cứu tù nhân. Những người biểu tình đã được báo trước, trên đường trở về Huế, đội quân đã gặp được các tù nhân.

Trong một khoảnh khắc hoảng loạn, lính và lính Giảng lao lưỡi lê vào nhau và bị thương nhẹ. Đội quân tiếp tục hành trình đến Công Lương, tại đây họ bắt giữ 34 người biểu tình trong đó chỉ có 13 người là dân Công Lương.

Những người biểu tình tập trung tại An Cựu quay trở lại thành phố từ 7h sáng. Họ tập hợp thành từng nhóm từ 50 đến 100 người, họ chiếm toàn bộ đại lộ dẫn đến ga xe lửa, khu vực nằm giữa Sở Công chánh và các tòa nhà của quan lại tỉnh. Đến 9h sáng, số lượng người tập trung tại đây càng đông hơn. Họ chặn xe kéo của một viên hạ sĩ hiến binh và tìm cách giật mũ của ông ta. Viên hạ sĩ buộc phải rút súng lục để đe dọa nhằm thoát thân. Chỉ ít phút sau, một nhân viên của Tòa Khâm sứ cũng bị chặn lại khi đang bước xuống khỏi xe kéo của mình.

Vào buổi chiều, các nhóm biểu tình giảm đi nhưng họ vẫn đe dọa những người bản xứ làm việc cho người Âu và ép buộc họ từ bỏ chủ nhân của mình.

Ngài Khâm sứ và Ngài Chỉ huy trưởng quân đội quyết định đưa lính bộ binh thuộc địa tuần tra trong thành phố mỗi đêm từ 3 đến 4 lần. Đêm đó diễn ra yên tĩnh.

Sáng ngày 13, các nhóm biểu tình tập trung trong thành phố, trên cầu Thành Thái và đại lộ dẫn đến ga xe lửa. Những người An Nam ăn mặc chỉnh tề bị quấy rối, quần áo của họ bị làm bẩn hoặc xé rách. Vào buổi chiều, một cuộc ẩu đã nhỏ xảy ra trước Tòa Khâm sứ, nơi một viên chức bị đẩy ngã khỏi xe đạp. Những người biểu tình bị giải tán nhưng sau đó lại tập hợp vào lúc 4h chiều trước Toà Công sứ Thừa Thiên. Họ tuyên bố rằng một Thị Lang của Bộ Hộ đã hẹn gặp họ ở đó để phát tang phục nhân dịp lễ tưởng niệm người dân bị giết ở Công Lương.

Trước khi sử dụng các biện pháp vũ lực thì cần phải tận dụng hết các biện pháp hoà giải và mặt khác cho đến thời điểm này những người biểu tình vẫn tương đối ôn hòa. Một lần nữa tôi khuyên họ trở về làng, đồng thời cảnh báo rằng từ nay trở đi, sẽ có biện pháp nghiêm khắc được áp dụng.

Vào lúc 6h rưỡi, những người biểu tình bắt đầu di chuyển về hướng An Cựu. Tôi cử viên Phó quản lý (Administrateur adjoint)  đi trưng dụng 50 lính tại doanh trại của Toà Công sứ (Légation) để đưa dân chúng ra khỏi thành phố trước khi trời tối. Trong khi tôi đang phối hợp với lính để giải tán đám đông quanh khu vực Toà Công sứ tỉnh Thừa Thiên và đại lộ dẫn đến ga xe lửa, một nhóm khoảng 100 người An Nam, được tuyển mộ từ những kẻ vô lại trong thành phố, đã tấn công đồn cảnh sát ở chợ. Một số người biểu tình từ các làng khác cũng nhập bọn với họ ở An Cựu.

Họ nhanh chóng bị giải tán bởi 50 lính bộ binh dã chiến, những người được điều từ An Cựu đến đồn cảnh sát ở chợ. Một viên cảnh sát và 2 kẻ bạo loạn bị thương. Khi tôi đến hiện trường, mọi chuyện đã kết thúc, những người biểu tình đã bỏ chạy vào thành hoặc trốn trong những thuyền tam bản neo gần chợ. Tôi buộc phải đích thân đưa 2 kẻ bạo loạn bị thương đến bệnh viện với sự hỗ trợ của viên Phó quản lý.

Ngay trong đêm đó, theo lệnh của ông Khâm sứ, Hội đồng Phụ chính đã đưa ra một quyết định và thông báo lúc nửa đêm cho những người biểu tình đang tập trung tại An Cựu. Họ được cảnh báo rằng nếu hôm sau họ quay trở lại, họ sẽ bị trấn áp không khoan nhượng.

Sáng ngày 14, tình hình yên tĩnh, đồn cảnh sát ở chợ được lính bộ binh hải quân chiếm giữ. Chỉ có một vài nhóm nhỏ khoảng 10 đến 15 người đi lại trong thành phố. Khoảng 3h chiều, một số người biểu tình tập trung trước tư dinh của các quan tỉnh và bất chấp mọi lời cảnh báo của tôi, họ vẫn không rời đi. Tôi điều quân đến và họ lập tức giải tán đám đông. Hai người biểu tình bị thương khá nặng do bị đánh bằng báng súng và hai người khác cố bơi qua sông.

Một nhóm từ 300 đến 400 người biểu tình đến từ An Hòa cũng nhanh chóng tan rã khi nghe tin về cuộc trấn áp vừa diễn ra. Đến tối, chỉ còn lác đác một vài người biểu tình đơn lẻ đi lại trong thành phố.

Ngày 15, các nhóm biểu tình rút về làng Phú Bài, cách thành phố 15 cây số. Trong 2 ngày tiếp theo, các cuộc họp vẫn diễn ra gần Huế và sau một quyết định được đưa ra tại Diên Dac, những người biểu tình trở về các làng của họ.

Tổ chức của phong trào này là những Hội kín, được thành lập dưới danh nghĩa hoạt động thương mại. Để che giấu các hoạt động thực sự, họ có tiến hành một số giao dịch mua bán, nhưng trên thực tế, họ tập hợp một số lượng hội viên nhất định, những người này có nhiệm vụ thu tiền quyên góp từ dân chúng và tuyên truyền các bản kêu gọi, khuyến khích họ học tập và làm giàu theo tấm gương của người Nhật nhằm mục đích thoát khỏi sự bảo hộ của người Pháp.

Hội đầu tiên được thành lập vào đầu năm 1907 tại Bao Vinh. Hội này ban đầu do ông Ta Dat (hạng tư) đứng đầu, nhưng ông đã qua đời và được thay thế bởi Hoang Thong, một quan lại thuộc hàng tứ phẩm, giáo viên tại Trường Pháp – Việt và cựu học sinh Quốc Học.

Hội này thường xuyên liên hệ với một hội tương tự ở Hội An, lấy danh nghĩa giao thương để che giấu hoạt động thực sự.

Báo cáo chính trị của Công sứ Thừa Thiên gửi Khâm sứ Trung Kỳ năm 1908

Sau đó, một số người thuộc dòng dõi Tôn Thất thành lập một Hội kín tương tự tại Truồi, huyện Phú Lộc và cử Huấn đạo Phú Lộc Nguyen Duc Vien làm thủ lĩnh. Ông này đã làm trong 10 năm.

Một số người An Nam từ Quảng Nam đến bàn bạc với các hội viên ở Truồi, những người này lại liên lạc với hội viên ở Bao Vinh.

Vào tháng 12 năm ngoái, tôi đã bắt giữ hai người tên Kien và Loc tại Phú Lộc khi họ đang tuyển mộ hội viên và thu tiền quyên góp. Tuy nhiên, không có bất kỳ bằng chứng xác thực nào để chứng minh hoạt động phi pháp của họ.

Sau này, các hội đoàn khác được thành lập tại chợ Niêm Phổ, huyện Quảng Điền, dưới sự điều hành của Ton That Phat, cựu giáo viên trường Quốc Tử Giám và tại làng Phú Lương, dưới tên gọi Quy Chanh, do Le Soan điều hành, tại làng Su So Thuong do tú tài Ho Phong đứng đầu.

Sau các sự kiện ở Quảng Nam, nhiều phái viên mật được cho là đã được cử từ tỉnh này đến Thừa Thiên nhằm tạo ra một phong trào tương tự. Đa số dân chúng đang bận rộn thu hoạch mùa màng nên dường như không mấy ai hưởng ứng, nhưng trước những lời đe dọa của các kẻ cầm đầu, họ đã quyết định cử đại diện của các làng lân cận đến Huế. Trong số những người bất hạnh ấy, người ta hứa hẹn trả công 20 xu mỗi ngày và chu cấp cho gia đình nếu họ bị giết trong các cuộc xô xát. Ba cá nhân có tên Am Toan, Am Mong và Khoa Lanh là những thủ lĩnh chính ở Thừa Thiên.

Cầm đầu phong trào này phần đông là các nho sĩ  và những người có phẩm trật mà thất nghiệp.Trước hết là mong muốn của những nho sĩ thất nghiệp muốn thay thế các quan chức đương nhiệm bằng cách bôi nhọ họ trước dân chúng, cáo buộc họ tham nhũng và lạm quyền. Những hành vi này đáng tiếc xảy ra khá thường xuyên nhưng không phải là phổ biến như những kẻ cầm đầu phong trào muốn tuyên truyền. Có lẽ cũng cần xem xét một nguyên nhân khác của phong trào này là sự kích động từ phía Nhật Bản. Dù những tác động đó dường như đã chấm dứt nhưng các thủ lĩnh phong trào vẫn có thể lợi dụng chúng. Họ biết rõ rằng sẽ không có bất kỳ sự hỗ trợ nào từ Nhật Bản nhưng đã cố tình che giấu sự thật với dân chúng khiến họ tin rằng một đội quân và hạm đội Nhật Bản sẽ đến giúp họ thực hiện các yêu sách của mình.

Những kẻ cầm đầu đã thuyết phục dân chúng rằng các cuộc biểu tình quy mô lớn sẽ đủ để giảm thuế và xóa bỏ lao dịch. Họ dựa trên mức thuế thấp hơn mà các đinh và ruộng đất phải chịu dưới thời các vua An Nam trước đây để đưa ra yêu sách của mình.

Tuy nhiên tôi đã chỉ ra với người dân rằng mặc dù các đinh và ruộng đất thời xưa phải nộp thuế ít hơn mỗi năm nhưng họ lại bị buộc phải đóng góp tự nguyện, những khoản này thực chất cao hơn nhiều so với số thuế cố định mà họ đang đóng hiện nay. Số ngày lao dịch bắt buộc trước đây cũng nhiều hơn đáng kể và con số quy định thường bị vượt quá tùy theo các công trình mà nhà vua quyết định thực hiện theo ý muốn của mình.

Phần lớn dân chúng do thiếu hiểu biết nên rất dễ bị lừa gạt và kích động. Vì vậy những kẻ cầm đầu đã tác động đến các kỳ hào và những người cao tuổi trong làng vì họ tin chắc rằng nếu những người này đứng lên đám đông sẽ đi theo.

Các thủ lĩnh dùng những lời đe dọa và rượu làm công cụ thuyết phục chính. Điều đáng chú ý là trong số những người biểu tình, những người cao tuổi mà đám đông nghe theo đều là những người không có thực quyền trong khi những kẻ cầm đầu thực sự lại ẩn mình trong đám đông hoặc thậm chí chưa bao giờ xuất hiện ở Huế.

Các làng đã bị những kẻ cầm đầu đến vận động, buộc dân làng phải ký vào danh sách ủng hộ các yêu sách và chọn ra 2 hoặc 3 đại diện cho mỗi làng.

Dưới sự chỉ đạo của các thủ lĩnh và được đông đảo dân chúng ủng hộ, những yêu sách của dân chúng đã được trình lên Tòa Công sứ hoặc quan lại đứng đầu tỉnh. Cụ thể gồm:

– Xóa bỏ lao dịch

– Giảm thuế thân xuống còn 1$ 20 xu cho mỗi đinh

– Xếp toàn bộ ruộng lúa vào hạng tư với mức thuế 60 xu mỗi tháng

– Cho phép nộp thuế thành hai kỳ

– Bãi chức các quan lại trong tỉnh

Tuy nhiên tất cả những yêu sách này thực chất chỉ là cái cớ để kích động phong trào quần chúng còn mục đích thực sự lại hoàn toàn khác. Theo những thông tin tôi cho là đáng tin cậy, những kẻ cầm đầu phong trào tại các tỉnh chỉ là trung gian giữa dân chúng và các nhân vật có thế lực cao cấp ở An Nam, đặc biệt là ở Bắc Kỳ.

Chính vì lý do này mà các cuộc biểu tình diễn ra trước tiên ở An Nam, chứ không phải ở Bắc Kỳ, nơi các lãnh đạo thực sự không muốn thu hút sự chú ý về phía mình.

Những lãnh đạo cấp cao lo ngại rằng trong thời kỳ nhà vua còn nhỏ, nước Pháp có thể xóa bỏ hoàn toàn vai trò của Hoàng đế và dễ dàng thôn tính triều đình An Nam trước khi Duy Tân lên ngôi. Họ hy vọng rằng sẽ đưa con trai của Đồng Khánh lên ngôi vì họ cho rằng với độ tuổi của ông ta có thể ngăn chặn được việc thôn tính này.

Hoàng tử Hàm Nghi được cho là vẫn duy trì liên lạc thường xuyên với các đại thần quan trọng mà chính quyền Bảo hộ tin tưởng. Ông đã gửi lời đến họ rằng ông sẵn sàng trở về nhưng với điều kiện phải có toàn quyền cai trị và bãi bỏ chế độ Bảo hộ. Tuy nhiên, ông cũng khẳng định sẽ để người Pháp tiếp tục sinh sống yên ổn ở An Nam vì ông cho rằng họ đã mang lại nhiều lợi ích cho đất nước. Những thư từ của Hàm Nghi chỉ được gửi qua một số ít thuộc hạ thân cận và không bao giờ được chuyển qua trung gian.

Đây có thể chính là nguyên nhân thực sự của các cuộc nổi dậy đã diễn ra cho đến nay.

Ngoài ra còn hai nguyên nhân phụ gây ra sự bất mãn trong dân chúng. Thứ nhất là hệ thống thuế quan hiện tại, đặc biệt là việc quản lý muối. Cách thức hoạt động của hệ thống này đã dẫn đến việc tăng giá khiến người dân phẫn nộ. Tôi đã từng báo cáo vấn đề này kịp thời. Thứ hai là quy định bắt buộc các làng phải lập trường học và trả lương cho giáo viên. Đây là một gánh nặng lớn khiến nhiều làng phản đối gay gắt. Một số làng đã gửi đơn khiếu nại lên Tòa Công sứ về điều này.

Dù đã có lời hứa rằng những yêu cầu của người biểu tình sẽ được xem xét nếu họ trở về làng trong hòa bình nhưng họ chỉ chịu rút lui khi bị trấn áp bằng vũ lực. Trước đó họ đã hành hung dân địa phương và tấn công đồn cảnh sát vào ban đêm. Để kiểm soát tình hình các đội tuần tra bộ binh thuộc quân đội thuộc địa đã được triển khai trong thành phố trong khi ban ngày các cuộc tụ tập bị giải tán bởi lính mà không cần dùng đến vũ khí, ngoại trừ một lần quân chính quy (troupe blanche) phải can thiệp. Các cuộc tuần tra chỉ kết thúc sau bốn ngày kể từ khi đám đông rút đi.

Trong thời gian diễn ra biến động một số vụ bắt giữ đã được thực hiện. 34 người bị bắt ở Công Lương theo lệnh của chính quyền quân sự. Những người này đã bị đưa ra trước lãnh sự quán của chính quyền Bảo hộ và đang chờ xét xử. Trong số đó, chỉ có 13 người là dân làng Công Lương, số còn lại đến từ các làng lân cận. Một số trong đó là những kẻ cầm đầu đã từng trói lính và lính Giảng cũng như bắt giữ các quan lại triều đình.

Sau cuộc tấn công vào đồn cảnh sát và các vụ xô xát trong thành phố, 30 người khác cũng bị bắt. Trong số đó có 9 người được trả tự do sau vài ngày vì không có đủ bằng chứng kết tội. Hai kẻ tấn công đồn cảnh sát là Le Khiet và Nguyen Ban bị kết án tử hình nhưng được hoãn thi hành án, 19 người khác vẫn đang chờ xét xử.

Trước và sau giai đoạn biến động, những kẻ cầm đầu sau đây đã bị bắt giữ:

 Nguyen Van Kien ( Nghệ An), Nguyen Loc ( Phú Lộc), Nguyen Tan Dinh (cựu Tri huyện bị bãi chức), Hoang Thong (Thủ lĩnh hội Bao Vinh), Huynh Ba Dam (Thầy giáo cũ của Hoàng tử Đồng Khánh), Tran Trong Canh (Cựu Hiệu trưởng trường Phan Rang), Chau Van Chuan (Hội Bao Vinh), Nguyen Di  (Chí Long), Nguyen Ngac (hay còn gọi Cậu Cả  Chí Long, con trai Nguyễn Tri Phương, từng là đại thần dưới thời Tự Đức và chỉ huy quân đội chống Pháp ở Nam Kỳ, Huynh Huu Thuc ( Su Lo), Khoa Dam ( Dieu Dan), Khoa Lang ( Ngoc Anh), Bo Phuc ( Xuan O), Đội trưởng Tuu (Su Lo), Truong Vinh (cựu lính Đồng Lộc), Am Chung  (Thanh Lương), Thuan (cựu lính Giảng Nam Phu), Danh Ngan (Vân Thê, cựu xạ thủ, đã trói lính Dõng ở Công Lương và đe dọa giết họ), Bui Van Kien (Mỹ Xá, đã ép buộc dân chúng từ làng lên phố bằng cách đe dọa), Le Tan chủ sự nghỉ hưu tại An Xuan, Tran Huu Chanh quan võ ngủ phẩm. Hai người cuối cùng đã cố gắng tập hợp lại dân làng nhưng bị ngăn cản.

Ngoài ra còn có:

Khoa Vay (Dạ Lê), Nguyen To (Dạ Lê),Thap Ro (Luong Quan, đã kích động dân làng giao con dấu xã trưởng và biên lai thuế cho Tòa Công sứ). Do Huyen (Lý trưởng Thừa Phủ, bị bắt tại An Cựu khi đang xúi giục dân chúng quay lại Huế).

Trong số các thủ lĩnh, Do Huyen đang bị xét xử trước Hội đồng Nhiếp chính. Những người khác đang bị thẩm vấn, chỉ riêng Danh Ngac là người duy nhất bị kết án tử hình. Thủ lĩnh chính Am Toan cùng hai phụ tá của y là Am Tuong và Khoa Manh vẫn chưa thể bị bắt dù đã có nhiều nỗ lực truy lùng. Chúng vẫn có ảnh hưởng lớn đối với dân chúng, những người đã che giấu chúng khỏi các phái viên của Tòa Công sứ được giao nhiệm vụ bắt giữ. Tuy nhiên, tôi cho rằng việc bắt giữ chúng chỉ còn là vấn đề thời gian.

Trong thành phố, cuộc sống bình thường đã trở lại. Những trạng thái tinh thần chung của những cá nhân không rõ danh tính xuất hiện vào thời điểm biểu tình đã biến mất.

Trong những ngôi làng, nhân dân đang bận rộn với việc thu hoạch lúa mà họ đã bỏ dở khoảng tám ngày trước. Một số làng thậm chí còn đến xin phép Tòa Công sứ để được tập trung tại đình làng (maison de commune) nhằm lo việc đóng thuế. Hiện tại, tình hình dường như đã hoàn toàn yên ổn.

Theo ý kiến của tôi, đây là một sự chuyển biến trong tư tưởng của người An Nam. Việc liên kết giữa những kẻ cầm đầu dù trong cùng một tỉnh hay giữa các tỉnh với nhau là một hiện tượng mới mà chúng ta cần lưu ý mà trước đây tôi chưa nhận thấy. Hơn nữa, sự tác động trực tiếp của những kẻ cầm đầu lên quần chúng đã thực sự mạnh mẽ hơn nhiều so với những gì ta có thể tưởng tượng dù ở Bắc Kỳ hay ở Trung Kỳ. Trong những giai đoạn khó khăn quân đội hầu như luôn được bố trí tại chỗ. Người An Nam vốn chỉ lo cày cấy trên ruộng lúa của mình nhìn chung vẫn đứng ngoài các phong trào sát hại người Công giáo trong thời kỳ chinh phục.

Mặt khác, những cáo buộc nghiêm trọng đã được những kẻ cầm đầu đưa ra chống lại các quan lại ở mọi cấp bậc. Một quan đứng đầu tỉnh như Phủ doãn đã bị trói và đánh đập, còn uy quyền của một Tham tri trong triều đình thì bị phớt lờ. Dường như từ những sự kiện này ta có thể nhận thấy một sự suy giảm uy tín mà các quan lại đã có từ trước đến nay ở xứ An Nam, một uy tín vốn giúp công việc cai trị của chính quyền Pháp trở nên dễ dàng hơn.

Mặc dù không nên cường điệu hóa tầm quan trọng của phong trào hiện nay nhưng rõ ràng đang có những tư tưởng mới manh nha tìm kiếm con đường của mình. Những tư tưởng này lấy cảm hứng từ sự chuyển mình của Nhật Bản, một sự chuyển mình mà người An Nam chưa thực sự hiểu rõ nhưng các kẻ cầm đầu thì đang lợi dụng nó để trục lợi cho chính mình.

Tôi cho rằng điều cần thiết là phải tỏ ra cứng rắn đối với những kẻ cầm đầu và áp dụng những biện pháp nghiêm khắc cần thiết đối với chúng. Ngược lại, tôi nghĩ rằng cần phải thể hiện sự khoan dung tối đa đối với dân chúng, vốn bản chất lương thiện và chỉ có lỗi là quá dễ dàng bị lôi kéo bởi những kẻ tham vọng hoặc cầm đầu. Tôi không nghĩ rằng việc trấn áp sẽ dễ dàng. Thật vậy, các quan lại, những người lẽ ra phải giúp chúng ta trong nhiệm vụ này, hoặc vì sợ hãi, hoặc vì sự đối lập chủng tộc đã do dự và thoái thác. Chỉ khi bị ép buộc và cưỡng chế, họ mới quyết định thực thi các luật hiện hành, nhưng đồng thời vẫn tìm mọi cách để lẩn tránh chúng.

Đám đông nho sĩ thất nghiệp phải được giám sát chặt chẽ vì họ tin rằng mình có khả năng tự mình cai quản đất nước và sẽ không do dự trong việc lựa chọn bất kỳ phương thức nào để đạt được mục đích của mình.

Cũng sẽ hữu ích nếu giám sát việc đưa vũ khí vào dù là Luang Prabang hay qua các tuyến đường từ Lào vào An Nam, vì chúng có thể được mua bằng các khoản quyên góp do các Hội kín .

Có lẽ cũng sẽ hữu ích nếu bãi bỏ việc tuyển mộ lính ở các tỉnh để tránh trường hợp họ bị buộc phải chống lại chính người thân hoặc dân làng của mình.

Nên suy nghĩ thế nào về những đề xuất từ các làng chăng? Về việc giảm thuế thân, yêu cầu này hiện tại không thể xem xét được. Tỷ lệ thuế mà dân An Nam phải đóng không hề quá cao, nhưng rõ ràng là việc phân bổ thuế thân không công bằng. Các kỳ mục trong làng, những người có tên trong sổ thuế và lẽ ra phải đóng thuế như mọi người lại tự miễn cho mình và bắt những người dân nghèo nhất phải gánh thay, khiến họ phải chịu những khoản thuế nặng nề quá sức.

Sẽ công bằng hơn nếu quy định tất cả những người từ 18 đến 60 tuổi đều phải đóng một khoản thuế thân, thấp hơn đáng kể so với mức thuế mà những người có tên trong sổ thuế hiện nay phải đóng. Tuy nhiên, cách làm này liệu có dẫn đến sự tan rã của làng xã vốn là bộ máy cốt lõi của đất nước và là cầu nối duy nhất giữa chính quyền Pháp với người dân?

Mặt khác, nếu thực hiện ngay cải cách này, chúng ta sẽ khiến tầng lớp quan lại xa lánh trong khi sự hợp tác của họ vẫn rất cần thiết.

Cải cách này là điều đáng mong muốn nhưng cần phải dần dần làm cho tầng lớp cầm quyền An Nam chấp nhận trước rồi sau đó mới áp đặt lên dân chúng.

Chế độ lao dịch như đang áp dụng ở hầu hết các tỉnh không gây ra khó khăn nghiêm trọng nào cho dân chúng vì họ thấy rằng lao dịch được sử dụng cho chính nhu cầu của họ. Chỉ riêng 4 ngày lao dịch  hiện nay là hai ngày dành cho công việc của làng là nguồn gốc của những sự lạm dụng liên tục. Các kỳ mục và một số người có thế lực dù là do sự giàu có hay địa vị xã hội của họ đã lợi dụng những ngày lao dịch này một phần để phục vụ lợi ích cá nhân.

Việc cải cách thuế điền địa cũng cần được xem xét nhưng không thể thực hiện nhanh chóng. Ngoại trừ một số ít trường hợp, sổ thuế không phản ánh chính xác diện tích canh tác của từng làng cũng như không phân loại đúng các ruộng lúa và đất đai theo danh mục tương ứng. Nhiều diện tích đất đai đang bị che giấu nhưng không phải do những người dân bình thường thực hiện. Một lần nữa, chính các kỳ mục hay những người có thế lực trong làng đã trực tiếp canh tác hoặc cho người khác canh tác trên những khu đất bị giấu đi để thu lợi. Tương tự ruộng đất của người nghèo lại phải gánh mức thuế điền địa cao nhất.

Để đạt được sự phân bổ công bằng trong việc đánh thuế cần phải lập một hệ thống địa bạ (cadastre) giúp xác định rõ ai phải đóng thuế và đóng bao nhiêu. Đây là một công việc khổng lồ chỉ có thể thực hiện rất chậm và trước hết cần phải làm cho dân chúng chấp nhận ý tưởng này.

Bên cạnh đó, cũng rất cần cải thiện bộ máy quan lại người An Nam. Hiện tại trong hàng ngũ này có không ít những người bất tài, cần phải loại bỏ.

Tóm lại, những cải cách là cần thiết nhưng chúng chỉ có thể được thực hiện từ từ, tránh những thay đổi đột ngột.”Top of Form

Bản báo cáo của Công sứ Pháp cung cấp một góc nhìn trực diện và chi tiết về diễn biến của phong trào chống thuế tại Huế năm 1908, từ các cuộc biểu tình của quần chúng đến biện pháp đối phó của chính quyền thực dân. Qua tài liệu, người Pháp không chỉ nhìn nhận đây là sự phản kháng vì gánh nặng sưu thuế, mà còn là một phong trào được tổ chức chặt chẽ bởi các Hội kín với mục tiêu chính trị sâu xa nhằm thách thức uy quyền của chính quyền Bảo hộ. Báo cáo cũng cho thấy rõ chiến lược của thực dân: một mặt, kiên quyết trừng trị nghiêm khắc những người cầm đầu, mặt khác lại tỏ ra khoan dung với dân chúng mà họ cho là chỉ bị lôi kéo. Đồng thời, Công sứ Huế buộc phải thừa nhận những bất công trong hệ thống thuế khóa và sự lạm quyền của quan lại bản xứ, nhưng lại do dự cải cách vì lo sợ làm xáo trộn cấu trúc cai trị. Đây là những tài gốc minh chứng lịch sử quý giá, phơi bày những nhận định, lo ngại và đối sách của chính quyền Pháp trước một hình thái đấu tranh mới, có tổ chức và mang đậm ý thức dân tộc đang trỗi dậy của người Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

Hồ sơ 2554 RSA – Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV

                                                 Tác giả: Thanh Biên-Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lịch sử xứ Quảng, tập 25