Bắc Ninh – Kinh Bắc là một trong những cái nôi của người Việt cổ. Nơi đây luôn lắng đọng và tích lũy nhiều tầng văn hóa của nền văn minh nước Việt. Theo dòng lịch sử, vùng đất này từng có nhiều sự thay đổi về địa danh, địa giới hành chính. Qua những trang tài liệu lưu trữ quý hiếm, chúng ta cùng nhìn lại những dấu mốc lịch sử quan trọng của vùng đất này.

Theo ghi chép của các bộ sách thuộc khối tài liệu Mộc bản triều Nguyễn, thời Hùng Vương dựng nước, vùng đất Kinh Bắc thuộc bộ Vũ Ninh; nhà Tần, thuộc đất Tượng quận; nhà Hán, thuộc quận Giao Chỉ; nhà Ngô, thuộc Giao Châu.

Sau ngàn năm Bắc thuộc, vùng đất này có nhiều lần thay đổi về tên gọi và địa giới hành chính. Thời nhà Đinh đổi làm Bắc Giang đạo; nhà (Tiền) Lê đổi làm lộ; nhà Lý theo như nhà (Tiền) Lê; nhà Trần gọi là Bắc Giang lộ, lại gọi là Kinh Bắc lộ; năm Quang Thái thứ 10 (1397) đổi làm trấn; thuộc Minh đổi làm hai phủ Bắc Giang và Lạng Sơn…

Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 21, mặt khắc 28 ghi về những thay đổi về địa danh, hành chính của Kinh Bắc qua các triều đại

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Đến năm Mậu Thân (1428), sau khi nhà Hậu Lê được thành lập, Vua Lê Thái Tổ cho đặt lộ Bắc Giang thuộc Bắc Đạo. Đến năm 1466, vua Lê Thánh Tông chia trong nước làm 12 đạo thừa tuyên, lúc này Bắc Ninh thuộc Thừa tuyên Bắc Giang. Đến năm 1469, thừa tuyên Bắc Giang được đổi thành thừa tuyên Kinh Bắc quản lĩnh 4 phủ và 16 huyện (theo Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 12, mặt khắc 5). Năm 1490 thừa tuyên Kinh Bắc lại đổi thành xứ Kinh Bắc. Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 24, mặt khắc 10 có ghi: “Tháng 4, mùa hạ, chia trong nước làm 13 xứ. Trước đây, định bản đồ, chia trong nước làm 12 đạo thừa tuyên. Đến nay, vua đem đất cũ Chiêm Thành đặt ba ty Đô, Thừa và Hiến ở Quảng Nam, định số hộ khẩu và cương vực mới tăng, chia làm 13 xứ là Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thuận Hóa, Quảng Nam và Trung đô phủ.”

Đến triều Nguyễn, Bắc Ninh được xem là một trong năm địa phương có diện tích rộng lớn ở phía Bắc, giữ vị thế chiến lược quan trọng đối với sự phồn thịnh của dân tộc. Năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn lập ra triều Nguyễn, Vua Gia Long đã cho ấn định các đơn vị hành chính trực thuộc trấn Kinh Bắc. Vua cho đặt lại dịch ở các trấn, phủ, huyện. Năm nội trấn ở Bắc Thành (Sơn Nam Thượng, Hạ, Hải Dương, Kinh Bắc, Tây Sơn đều là dân Hán, gọi là năm nội trấn) mỗi trấn hai ty Tả thừa Hữu thừa, mỗi ty đặt 1 câu kê, 1 cai hợp, 1 thủ hợp và 22 người thuộc ty; mỗi phủ đặt 2 đề lại, 10 thông lại; mỗi huyện đặt 2 đề lại, 8 thông lại; mỗi phủ huyện đều 50 người lính lệ; mỗi tổng đặt 1 tổng trưởng và 1 phó tổng. (theo Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 18, mặt khắc 24)

Năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mạng đã cho đổi trấn Kinh Bắc thành trấn Bắc Ninh, danh xưng Bắc Ninh bắt đầu xuất hiện từ đây. Đến năm Tân Mão (1831), trong cuộc cải cách hành chính toàn diện đất nước, vua Minh Mạng đã cho đổi các dinh, trấn thành tỉnh. Trấn Bắc Ninh được đổi thành tỉnh Bắc Ninh, gồm 4 phủ là Từ Sơn, Thiên Phúc, Thuận An và Lạng Giang.

Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 36, mặt khắc 35 ghi về việc Vua Minh Mệnh cho đổi trấn Kinh Bắc thành trấn Bắc Ninh, năm Nhâm Ngọ (1822)

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Như vậy có thể thấy rằng, dù trải qua nhiều lần được chia tách, sáp nhập và thay đổi về tên gọi, ranh giới địa lý, tỉnh Bắc Ninh vẫn luôn khẳng định được mình là vùng đất ngàn năm văn hiến có nền kinh tế, văn hóa phát triển và cũng là địa bàn quân sự trọng yếu của đất nước.

Tài liệu tham khảo:

1. Hồ sơ 16, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

2. Hồ sơ H17, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

3. Hồ sơ 21, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

Mai Duyên