Vào khoảng tháng 3 âm lịch hàng năm, khi tiết trời bắt đầu ấm dần lên sau mùa lạnh, người Việt có một phong tục truyền thống rất ý nghĩa – đó là tảo mộ trong tiết Thanh minh. Đây là lúc con cháu trong gia đình cùng nhau đi dọn cỏ, đắp đất, sửa sang lại phần mộ của tổ tiên. Tục lệ này thường diễn ra từ ngày mùng 5 đến mùng 10 tháng 3 âm lịch. Sau một năm với mưa nắng, cỏ mọc um tùm, đất bị xói lở, mộ phần có thể hư hỏng nên cần được chăm sóc lại, vừa để giữ gìn, vừa thể hiện lòng biết ơn đối với những người đã khuất.
Tảo mộ trong cung đình
Nếu ở dân gian, việc tảo mộ thường được làm trong gia đình, thì trong cung đình triều Nguyễn, nghi lễ tảo mộ cũng được tổ chức hết sức long trọng và có quy mô. Đặc biệt dưới thời vua Thiệu Trị (trị vì từ năm 1841–1847), một nghi lễ mang tính biểu tượng cao được tổ chức hàng năm vào dịp Thanh minh, đó là lễ rải đất lên mộ tổ tiên tại các lăng tẩm hoàng gia.
Không giống với việc tảo mộ thông thường, nghi lễ rải đất của vua không chỉ là hành động vun bồi mộ phần, mà còn là một nghi lễ cung đình phức tạp, được chuẩn bị chu đáo, đầy đủ nghi thức và lễ nghi theo đúng quy định của triều đình. Nghi lễ này vừa thể hiện sự thành kính với tổ tiên, vừa là cách nhà vua nêu gương về đạo hiếu cho toàn dân noi theo.
Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 96, mặt khắc 22 ghi về quá trình chuẩn bị của bộ Lễ cho lễ rải đất vào tiết Thanh minh (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)
Công tác chuẩn bị lễ rải đất
Theo ghi chép trong Mộc bản sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”, vào đêm trước ngày Thanh minh, các đơn vị như Bộ Lễ, Ty Điển nghi, đội lính canh, cùng các quan chức được giao nhiệm vụ chuẩn bị đầy đủ đồ thờ cúng, đèn nến, lọng, tán, cờ xí, nghi trượng… Tất cả được bày biện trang nghiêm tại khu vực bảo thành và điện Biểu Đức – nơi thờ tự và thực hiện nghi lễ.
Một vật phẩm rất quan trọng là hộp đựng đất sạch, được làm bằng tre, sơn vàng, đặt trong chiếc sọt sơn son phủ bằng khăn đoạn vàng. Đất được chọn phải là loại đất sạch, tinh khiết, thể hiện sự tôn kính tối đa dành cho phần mộ tổ tiên.
Các hoàng thân, quan lại từ Tam phẩm trở lên đều mặc lễ phục trang nghiêm, xếp hàng đứng ở vị trí đã quy định. Tất cả đều tuân thủ theo nghi lễ một cách chuẩn mực, thể hiện sự tôn nghiêm và linh thiêng của buổi lễ.
Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 96, mặt khắc 22 đã ghi như sau: “Canh 5 hôm ấy[1], Bộ Lễ hội đồng với thủ hộ sứ sức cho ty Điển nghi và biền binh canh giữ đến trước bảo thành bày đặt đồ thờ, đèn nến ở trong màn vàng, phía trước đặt tán vàng, quạt vả; ở hai bên tả hữu mặt sau lầu Đức Hinh thì liệu bày đồ lỗ bộ, phất trần và quạt lông; lại bày thành hàng tán, quạt, lỗ bộ, nghi trượng ở hai bên tả hữu sân bái cấp thứ nhất ngoài cửa Hồng trạch ở trước sân điện Biểu đức; hai bên tả hữu sân cấp thứ hai, thứ ba thì bày hàng cờ giáo; quân Cấm binh Vũ Lâm chiểu theo từ hai bên tả hữu mặt sau lầu Đức Hinh, đến trên đường hai bên tả hữu hồ Nhuận Trạch bày hàng cờ, giáo nghiêm chỉnh; quan hữu tư hội đồng với thủ hộ sứ, phụng trực thái giám đến trong màn vàng trước bảo thành và điện Biểu Đức bày đặt lễ phẩm đều đủ và theo khoản bày đặt chỗ bái, chiếu làm lễ của vua theo như lệ”.
Buổi lễ chính: Rải đất trong tiết Thanh minh
Sáng sớm ngày Thanh minh, sau khi hoàn tất các nghi lễ tại điện Cần Chánh trong hoàng cung, vua Thiệu Trị cùng hoàng hậu và đoàn tùy tùng đi thuyền rồng dọc sông Hương để đến lăng tẩm tổ tiên.
Khi đến nơi, nghi thức rải đất được thực hiện rất trang nghiêm. Đầu tiên, nhà vua làm lễ rửa tay. Sau đó, các xướng quan lần lượt hô khẩu lệnh cho từng phần lễ: từ lúc nhà vua tiến đến chiếu lễ, dâng hương, quỳ lạy, đến lúc chính thức thực hiện nghi lễ rải đất.
Một hoàng thân được giao phụ trách theo hầu nhà vua, hai quan đại thần giữ vai trò bưng sọt đựng đất và mở khăn phủ, tất cả đều quỳ, dâng đất lên. Nhà vua đích thân cầm lấy phong bao đựng đất, chắp tay kính cẩn, rải đất lên phần mộ tổ tiên. Sau khi rải xong, bao đất được trao trả lại vào sọt, mọi hành động đều theo đúng trình tự nghi lễ, không sai lệch.
Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 96, mặt khắc 24,25 ghi về nghi lễ rải đất lên mộ vào ngày tiết Thanh minh (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)
Mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 96, mặt khắc 24,25 chép khi vua đến tôn lăng: “Thị vệ tiến nước rửa tay xong, thủ hộ sứ mở cửa bả thành, tiến đến trong cửa vài bước, chính giữa đặt chiếu làm lễ của vua, nhà vua đến chỗ màn vàng đứng ở chỗ đứng; xướng: ai giữ việc gì vào việc ấy, xướng: tấu đến chỗ bái, xướng: tấu đến trước hương án, xướng: tấu quỳ, xướng: tấu dâng hương (hoàng thân được sung chấp sự), xướng: tấu phủ phục, xướng: tấu dậy, xướng: tấu đứng thẳng…xướng: làm lễ rải đất, xướng: tấu lên chỗ rải đất. Nhà vua theo mé đông đi lên, một hoàng thân công sung chức theo hầu, hai quan đại thần, một bưng sọt, một viên sung chức cung hộ (trước khi ấy, bộ Lễ kê khai, chờ chỉ chọn phái), một viên đường quan bộ Lễ sung chức cung đạo, đều lần lượt theo sau. Đến trong cửa bảo thành, nhà vua tiến lên vài bước, đến chính giữa đứng ở chỗ làm lễ rải đất. Xướng: tấu quỳ, quan đại thần cung hộ và quan đại thần bưng sọt đều tiến lên quỳ ở phía Đông, xướng: tấu rải đất. Quan đại thần cung hộ mở khăn đậy và nắp sọt ra, quan đại thần bưng sọt dâng sọt đất lên, nhà vua bưng lấy phong đựng đất, chắp tay giơ lên, rải đất xong, quan đại thần bưng sọt tiếp nhận phong bì, lại để vào trong sọt”.
Sự đều đặn và nhất quán qua các năm
Điều đáng chú ý là suốt thời gian trị vì của mình, năm nào vua Thiệu Trị cũng đích thân thực hiện nghi lễ này. Sử sách ghi rõ:
Năm Nhâm Dần (1842): vua giao các đại thần phụ giúp hoàng tử Hồng Bảo thực hiện nghi lễ.
Năm Quý Mão (1843) và Giáp Thìn (1844): vua đến Hiếu lăng và lăng Hiếu Đông, trực tiếp rải đất lên mộ phần.
Năm Ất Tỵ (1845): vua rải đất tại lăng Hiếu lăng, sau đó đến lăng Cơ Thánh và Hiếu Đông.
Năm Bính Ngọ (1846): sau lễ rải đất, vua còn đích thân đi xem phong cảnh quanh khu lăng, khen ngợi sự trang nghiêm và tặng thưởng cho các quan làm tốt công tác chuẩn bị.
Điều này cho thấy lòng hiếu kính sâu sắc của nhà vua đối với tổ tiên, đồng thời thể hiện rõ ràng sự tôn trọng văn hóa, truyền thống của dân tộc.
Một nghi lễ mang tính nhân văn sâu sắc
Lễ rải đất trong tiết Thanh minh dưới triều vua Thiệu Trị không chỉ là một hoạt động mang tính nghi lễ cung đình. Hơn thế, đây còn là một biểu tượng văn hóa sâu sắc, thể hiện lòng biết ơn, sự kết nối giữa các thế hệ, giữa người sống và người đã khuất.
Qua nghi lễ ấy, người dân có thể cảm nhận được một thông điệp rất rõ ràng: dù ở địa vị nào, lòng thành kính với tổ tiên luôn là điều thiêng liêng, không thể thay thế. Và chính việc nhà vua tự mình thực hiện nghi lễ ấy đã góp phần gìn giữ, phát huy truyền thống đạo lý quý báu của dân tộc Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ sơ H20, Mộc bản Triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
2. Hồ sơ H21, Mộc bản Triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
3. Hồ sơ H22, Mộc bản Triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
4. Hồ sơ H23, Mộc bản Triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
5. Hồ sơ H24, Mộc bản Triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
Cao Quang
[1] : Khoảng từ 03 giờ sáng đến 05 giờ sáng ngày tiết Thanh minh