LƯƠNG VĂN CHÁNH – NGƯỜI CÓ CÔNG KHAI HOANG VÙNG ĐẤT PHÚ YÊN

Lương Văn Chánh (Chính) vốn là một võ quan, có công lớn trong sự nghiệp chiêu tập lưu dân khai khẩn, mở mang và phát triển vùng đất Phú Yên. Mặc dù được đánh giá là một bậc công thần, tuy nhiên cho tới nay thân thế, sự nghiệp và hành trạng của ông lại được ít người biết đến, bởi những tư liệu viết về ông rất khan hiếm. Lần tìm trong khối Mộc bản triều Nguyễn – Di sản Tư liệu thế giới, chúng tôi đã may mắn tìm thấy được những bản khắc quý ghi chép về ông.

Lương Văn Chánh sinh vào ngày tháng năm nào không ai rõ. Chỉ thấy trong Mộc bản triều Nguyễn có khắc ông người ở huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Tổ tiên là người ở Bắc Hà. Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 10, mặt khắc 22 ghi về ông rằng: “Lương Văn Chánh: Người huyện Tuy Hòa, đầu bản triều làm quan chức Thiên vũ vệ Đô chỉ huy sứ, đánh Chiêm Thành, lấy được Hồ thành, thăng Phụ quốc Thượng tướng quân. Vì có quân công, thăng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, tước Phù Nghĩa hầu. Lại thăng làm quản trấn, chiêu tập lưu dân, khai khẩn đất hoang. Sau khi mất, tỏ ra linh ứng, được tặng Phù quận công, Thượng đẳng thần”.

 

Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 10, mặt khắc 22 ghi chép về người mở đất Phú Yên Lương Văn Chánh

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Mùa đông, tháng 10, năm Mậu Ngọ (1558), Lương Văn Chánh theo chúa Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hoá, thực hiện công cuộc mở cõi phương Nam. 12 năm sau, tức năm Mậu Dần (1578), sau khi đánh quân Chiêm Thành đến cướp phá, chiếm được thành Hồ, ông được chúa Tiên – Nguyễn Hoàng cho giữ chức Tri huyện Tuy Viễn. Mộc bản sách Đại Nam liệt truyện tiền biên, quyển 3, mặt khắc 16 ghi: “Đầu năm Mậu Ngọ (1558), Lương Văn Chánh theo Thái Tổ vào Nam. Khoảng năm Mậu Dần (1578),  người Chiêm Thành đến lấn cướp, Chánh tiến quân đến sông Đà Diễn, đánh lấy được Hồ thành. Vì có quân công, thăng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, tước Phù Nghĩa hầu. Lại thăng làm quan trấn An Biên, huyện Tuy Viễn. Văn Chính chiêu tập dân Xiêm khai khẩn đất hoang ở Cù Mông, Bà Đài (tức Xuân Đài ngày nay). Cho dân di cư đến đấy. Lại mộ dân khai hoang ở trên dưới triền sông Đà Diễn chia lập thôn ấp, ngày dần đông đúc”.

 

 

Mộc bản sách Đại Nam liệt truyện tiền biên, quyển 3, mặt khắc 16 ghi chép công trạng của Nguyễn Văn Chánh với vùng đất Phú Yên

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Trước khi chúa Nguyễn Hoàng cho lập phủ Phú Yên vào năm Tân Hợi (1611), thì Phú Yên là vùng đất biên viễn, bốn bề hoang vu. Với chức vụ của mình, Nguyễn Văn Chánh đã ra sức dẹp yên biên trấn, chiêu tập dân phiêu tán đến ở Cù Mông và Bà Đài. Ngoài ra, ông còn kêu gọi lưu dân ra sức khẩn hoang vỡ đất, hướng dẫn dân chúng quy tụ lập ấp; từng bước tạo nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ sông Đà Diễn, sông Cái.

Nguyễn Văn Chánh mất năm Tân Hợi (1611), tại thôn Long Phụng, thuộc xã Hòa Trị ngày nay; được nhân dân an táng, lập đền thờ nhớ ơn và suy tôn ông là Thành hoàng. Mộc bản sách Đại Nam liệt truyện tiền biên, quyển 3, mặt khắc 16, 17 cũng tôn vinh ông như sau: “Khi Văn Chánh chết, được tặng phong Tiền trấn doanh Tham tướng Phù quận công, Bảo quốc chi thần. Tỏ ra hiển linh, được người làng lập đền thờ. Thế Tông năm thứ 2, Canh Thân (1740), truy tặng Bảo quốc Hộ dân Hựu thuận chi thần. Năm thứ 6, Giáp Tý (1744), tặng thêm là Bảo quốc Hộ dân Hựu thuận Phong công Tĩnh tiết chi thần. Minh Mạng năm thứ 3 (1822), sắc phong Tráng du Cung vũ Linh ứng Thượng đẳng thần. Con cháu có hai người được phong tước hầu. Văn Chánh là công thần hồi quốc sơ, khai khẩn đất đai, mở rộng biên giới, công lao thật rõ rệt. Nhưng vì sự tích được biết tới muộn, cho nên sách “Thực lục” bỏ sót tên ông”.

Có thể nói, với công lao đóng góp của mình, Lương Văn Chánh được người dân Phú Yên tôn sùng như một vị Thần, một bậc “khai quốc công thần”. Ngày nay ở Phú Yên, tên của ông được đặt cho trường chuyên duy nhất là Trường Trung học phổ thông chuyên Lương Văn Chánh./.

Cao Quang

 

Tài liệu tham khảo.

1. Hồ sơ H19/4, Mộc bản Triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

2. Hồ sơ H20/11, Mộc bản Triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;