Theo Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư thì “Vua họ Lê, tên huý là Lợi, người làng Lam Sơn, huyện Lương Giang, thuộc Thanh Hoá” (Nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa).

Lê Lợi – Vị anh hùng giải phóng dân tộc

Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa

Mùa xuân năm 1416, tại vùng Lũng Nhai cách núi rừng Lam Sơn không xa, Lê Lợi cùng với 18 người đồng chí đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương tại Hội Thề Lũng Nhai. Sau khi được tin Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, chiêu mộ người hiền tài, các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. Vua từng bảo mọi người: “Ta cất quân đánh giặc, không phải là có lòng ham muốn phú quý, mà chính vì muốn để ngàn năm về sau, người đời biết ta không chịu làm tôi tớ cho bọn giặc tàn ngược”.

Bản dập Mộc bản Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam sơn

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương chính thức phất cờ khởi nghĩa, hịch truyền đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Các tầng lớp nhân dân với nhiều đại biểu ưu tú đã tụ về tham gia nghĩa quân như Nguyễn Chích, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn,… Mùa hạ, năm 1419, nghĩa quân Lam Sơn tấn công đồn Nga Lạc và bắt được viên chỉ huy của quân Minh. Nhưng trước thế giặc mạnh, quân Lam Sơn lại phải rút lên núi Chí Linh lần thứ 2. Trước tình thế khó khăn, Tướng Lê Lai đã xin nhận nhiệm vụ, giả đóng làm chủ tướng Lê Lợi xuống núi, đánh lạc hướng quân Minh.

Mộc bản sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chép:“Lê Lai liền cho sắp xếp nghi trượng chỉnh tề, chính mình đem quân và voi, hướng ra phía địch, chỉ huy các tướng chia đường khiêu chiến. Tướng Minh lấy thêm quân bao vây Lê Lai. Lê Lai chiến đấu kiệt sức, bị người Minh bắt và giết chết. Địch bèn rút quân về Tây Đô”. Nhờ thế, nghĩa quân an toàn rút lui.

Tháng 10, năm Canh Tý (1420), ông dùng kế phục binh giành chiến thắng trước quân Lý Bân, Phương Chính tại Chi Lăng, rồi tiến đánh giặc ở Ba Lầm, thuộc Lỗi Giang, trong giai đoạn này Lê Lợi thu dùng được Nguyễn Trãi làm tham mưu quân sự xuất sắc.

Năm Tân Sửu (1421), quân Lam Sơn phá quân Trần Trí và đánh đuổi quân Ai Lao (Lào) tiếp tay với quân Minh. Cuối năm 1422, Nghĩa quân Lam Sơn một lần nữa phải về đóng ở núi Chi Linh. Suốt hơn 2 tháng trên núi, chịu cảnh bị bao vây, nghĩa quân phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn lương thực. Mộc bản sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có chép: “Quân lính hết lương, hơn hai tháng, chỉ ăn rau củ và măng tre mà thôi. Vua giết 4 con voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân sĩ.”

Trước tình thế đó, Bình Định Vương bất đắc dĩ phải hoà hoãn với giặc để yên lòng quân. Trong thời gian hòa hoãn khoảng 1 năm, nghĩa quân Lam Sơn đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lương thực, chiêu mộ binh sĩ.

Mùa thu năm 1424, Tướng Lê Chích đã đề xuất nghĩa quân chiếm lấy Nghệ An vì “Nghệ An là nơi hiểm yếu: đất rộng, người đông, tôi đã từng qua lại Nghệ An, nên rất thông thuộc đường đất. Nay ta nên trước hãy nên đánh lấy Trà Long, chiếm giữ bình định cho được Nghệ An để làm chỗ đất đứng chân, rồi dựa vào đấy mà lấy tiền tài sức lực, sau sẽ quay cờ trẩy ra Đông Đô thì có thể tính xong được việc dẹp yên thiên hạ”. Bình Định Vương khen kế ấy và quyết định tiến hành chiến dịch giải phóng Nghệ An. Trận đầu tiên trong chiến dịch này diễn ra vào mùa thu năm 1424, khi nghĩa quân Lam Sơn bất ngờ tấn công đồn Đa Căng và giành thắng lợi. Khi qua núi Bồ Lạp (nay thuộc huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An), nghĩa quân bất ngờ gặp quân mai phục. Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Trời sắp tối, vua bèn phục sẵn binh tướng trong rừng. Bọn Phương Chính đến, vua tung quân ra đánh. Quân Minh tan vỡ lớn. Ta chém được Đô ty Trần Trung và hơn hai nghìn thủ cấp quân giặc, bắt được hơn một trăm cỗ ngựa. Quân Minh tháo chạy” .

Ngày hôm sau, khi tiến đến châu Trà Long (nay thuộc huyện Con Cuông, Tương Dương, tỉnh Nghệ An), nghĩa quân lại chiến thắng một lần nữa. Tướng Minh là Trần Trí phải rút chạy về thành Nghệ An. Từ đó, thế lực của quân Lam Sơn càng thêm lớn mạnh. Sau khi bị mất châu Trà Long, hai tướng nhà Minh là Trần Trí và Phương Chính vội kéo quân tấn công bằng đường bộ và đường thuỷ đến cửa ải Khả Lưu, hòng chiếm lại Trà Lân. Trước tình hình đó, Quân Lam Sơn làm kế nghi binh để đánh lạc hướng quân địch. “…Ban ngày cho quân mở cờ khua trống, ban đêm cho đốt lửa làm như thổi nấu, nhưng ngầm sai quân và voi lặng lẽ qua sông, mai phục. Mờ sớm hôm sau, địch tiến quân để bức bách ta, gặp quân mai phục nổi dậy, chúng thua thiệt nặng nề, phải lui giữ mạn hạ lưu. Rồi chúng lựa theo thế núi, đắp đồn, lập lũy, cậy có nhiều lương thực, chực đóng cửa đồn, cố thủ kéo dài. Vương đặt quân phục khắp cả bốn bề ở mặt thượng lưu, rồi đốt doanh trại, giả vờ làm như lẩn trốn. Địch kéo đến chiếm cứ: phục binh của ta thình lình nổi dậy, xung kích.” Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 13, mặt khắc 19. Từ sau các trận chiến thắng liên tiếp, thanh thế của Bình Định Vương nổi mạnh. Mặc dù, bấy giờ lương thực đã cạn kiệt nhưng ông ra lệnh cho các tướng rằng: “Dân chúng khổ về chính sách bạo ngược của giặc đã lâu rồi. Những châu huyện nào chúng ta đi tới, không được mảy may xâm phạm của dân. Nếu không phải là trâu bò, thóc lúa của bọn nguỵ quan, thì dẫu đói khát khốn khó đến đâu cũng không được lấy bậy”  sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 10, mặt khắc 16.

Đầu năm 1425, nghĩa quân cơ bản đã giải phóng được vùng Nghệ An. Sau đó, nghĩa quân lại chuẩn bị tiến ra Tây Đô. Mùa hạ năm 1425, tướng Đinh Lễ xuất quân đánh thành Diễn Châu. Trận này, quân Minh thất bại, phải rút chạy về thành Tây Đô cố thủ. Quân Lam Sơn lại tiếp tục bao vây thành Tây Đô, đồng thời phủ dụ dân chúng tại Thanh Hoá. Sau khi giải phóng Thanh Hóa, Bình Định Vương hạ lệnh cho các tướng đánh Tân Bình và Thuận Hoá.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Vương liệu trước rằng Tân Bình, Thuận Hóa bị đứt liên lạc với Nghệ An và Đông Đô đã từ lâu, bèn dụ bảo các tướng: Người giỏi chiến trận thường bỏ chỗ kiên cố, đánh chỗ sơ hở, tránh chỗ vững chắc, đánh vào chỗ trống rỗng; Như thế thì chỉ dùng sức một phần mà thành công gấp bội”.

Đến cuối năm 1425, nghĩa quân Lam Sơn đã làm chủ toàn bộ vùng đất từ Thanh Hoá đến đèo Hải Vân ngày nay. Mùa thu năm 1426, quân Lam Sơn chia thành 3 cánh quân tiến ra Đông Quan.

Cánh quân thứ nhất, chặn viện binh nhà Minh từ Vân Nam kéo xuống. Cánh quân thứ hai, chặn viện binh nhà Minh từ Lưỡng Quảng kéo xuống. Cánh quân thứ ba, do tướng Đinh Lễ và Lê Xí chỉ huy sẽ tấn công trực diện vào Đông Quan. Khi đạo quân của tướng Lý Triện tiến sát thành Đông Quan, quân Minh đem quân ra đánh. Tại Ninh Kiều (nay thuộc địa phận huyện Chương Mỹ, Hà Nội), quân Lam Sơn đã tấn công và tiêu diệt hơn 2.000 tên địch.

Trước tình thế đó, Tướng nhà Minh là Trần Trí phải rút về tìm cách bảo vệ thành Đông Quan. Mùa đông năm 1426, vua Minh lại tiếp tục sai viên Tổng binh Thành Sơn Hầu Vương Thông đem 5 vạn quân sang cứu viện cho Đông Quan.

Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Thông mới đến, tinh thần rất hăng, điều động tất cả mười vạn quân, cùng bọn Hiệp chia làm ba đường, đồng thời xuất phát”. (Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 13, mặt khắc 27)

Tướng Lý Triện cản phá quân của Vương Thông, tướng Lê Xí và Đinh Lễ đưa quân đến tiếp ứng. “Bọn Lễ và Xí lựa lấy ba nghìn quân tinh nhuệ và hai thớt voi, tức tốc ngay ban đêm, đến hội quân ở Cao Bộ. Họ chia quân đặt phục ở Tốt Động và Chúc Động”. Biết được kế hoạch đánh úp của địch, hai tướng Lý Triện và Lê Xí bèn dụ địch vào ổ mai phục tại Tốt Động. Đinh Lễ và Lý Triện dùng luôn kế của giặc để đánh giặc, hạ lệnh cho các quân nghe tiếng súng nổ vẫn nằm im không được nhúc nhích. Giặc cho là không có quân, đi theo đường tắt tới, nổ súng rồi đem toàn bộ quân tiến sâu vào. Trận này quân Minh thua với tổn thất rất lớn.

(Còn nữa)

Phạm Yến