Từ xa xưa, các bậc tiền nhân luôn đề cao vai trò của nhân tài đối với quốc gia. Trong Bài ký bia Tiến sĩ khoa thi Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo 3 (1442) dưới triều Lê Thái Tông đã khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”. Chính vì vậy, việc giáo dục và tuyển chọn kẻ sĩ được xem là công việc trọng yếu của mọi triều đại.

Trong Mộc bản Khâm định Việt sử thông giám cương mục (quyển 24, mặt khắc 34), ghi lại dụ của vua Lê Hiến Tông năm 1499: “Nhân tài là tinh anh của quốc gia, khoa cử là con đường rộng mở cho sĩ tử”. Tư tưởng ấy đã trở thành nền tảng xuyên suốt, đặt khoa cử vào vị trí then chốt trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Hình ảnh mô phỏng 1 kỳ thi Hương dưới triều Nguyễn (Ảnh: AI)

1. Hình thành cơ sở giáo dục và khoa cử

Lịch sử khoa cử Việt Nam có bước ngoặt từ thời Lý. Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu ở Thăng Long để thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối, Thất thập nhị hiền và làm nơi học tập của hoàng tử. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Tam trường để chọn “Minh kinh bác học” – đây được coi là khoa thi đầu tiên trong lịch sử. Một năm sau (1076), nhà vua thành lập Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của Việt Nam, đào tạo và tuyển chọn nhân tài thông qua con đường khoa cử.

Vua Lý Nhân Tông cho thành lập Quốc Tử Giám (1076) – Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam (Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 3, mặt khắc 38). Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Sang triều Trần, Quốc Tử Giám được đổi thành Quốc Học Viện (1253), mở rộng đối tượng học tập ra cả thường dân có sức học xuất sắc. Nhà Trần cũng đặt ra chế độ Thái học sinh và các danh hiệu Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa từ năm 1247. Đặc biệt, Nguyễn Hiền trở thành Trạng nguyên trẻ tuổi nhất lịch sử (13 tuổi).

Đến thời Lê sơ, dưới triều Lê Thánh Tông, Quốc Tử Giám được mở rộng quy mô, trở thành trung tâm giáo dục tiêu biểu của quốc gia. Nội quy học tập và thi cử được quy định chặt chẽ, chia Giám sinh thành ba hạng (thượng xá, trung xá, hạ xá) dựa theo thành tích. Những danh nho lớn như Chu Văn An, Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Đôn từng giảng dạy tại đây, góp phần tạo dựng nền quốc học vững chắc.

2. Các kỳ thi và hệ thống tuyển chọn nhân tài

Thể chế khoa cử Việt Nam dần được chuẩn hóa từ thế kỷ XV với ba kỳ thi chính:

Thi Hương: Tổ chức tại các địa phương, quy định 4 kỳ thi (kinh nghĩa, chiếu chế biểu, thơ phú, văn sách). Người đỗ gọi là Cử nhân.

Thi Hội: Tổ chức 3 năm một lần tại kinh đô, dành cho những người đỗ thi Hương. Người đỗ gọi là Tiến sĩ, người đứng đầu là Hội nguyên.

Thi Đình: Diễn ra tại sân đình, do nhà vua trực tiếp ra đề và định thứ bậc. Người đỗ đầu gọi là Đình nguyên. Người vượt qua cả ba kỳ thi Hương – Hội – Đình, đều đỗ đầu, được xưng là Tam nguyên.

Trong thời Lý – Trần, ngoài thi Nho học, từng có khoa thi Tam giáo (1195) để chọn người am hiểu cả Nho, Phật, Đạo. Điều này phản ánh sự dung hòa tư tưởng tôn giáo trong giai đoạn đầu.

3. Bia Tiến sĩ  và Di sản tư liệu thế giới

Một dấu ấn nổi bật của khoa cử Việt Nam là hệ thống bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Năm 1484, vua Lê Thánh Tông cho dựng bia khắc tên những người đỗ Tiến sĩ từ khoa thi 1442. Theo Mộc bản Khâm định Việt sử thông giám cương mục (quyển 17, mặt khắc 21–22), bia không chỉ nhằm vinh danh người hiền tài mà còn khuyến khích sĩ tử nỗ lực học tập vì nước.

Các tiến sĩ sau khi đỗ đạt được hưởng nhiều ân điển: ban tước trật, cấp áo mũ, dự yến vườn Quỳnh, cưỡi ngựa vinh quy bái tổ, và đặc biệt là được khắc tên trên bia đá để lưu danh muôn đời. Hệ thống bia Tiến sĩ hiện còn 82 tấm, đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới (2010).

Ngoài bia Tiến sĩ, di sản khoa cử Việt Nam còn được phản ánh trong khối Châu bản, Mộc bản triều Nguyễn. Châu bản ghi chép chi tiết việc tổ chức thi cử, lễ vinh quy tiến sĩ, ban thưởng và phong chức. Mộc bản Quốc triều hương khoa lục thống kê 47 khoa thi Hương từ năm 1807 đến 1918, cung cấp tư liệu quý về hệ thống khoa bảng cuối thời phong kiến.

4. Danh nhân khoa bảng tiêu biểu

Lịch sử khoa cử Việt Nam đã sản sinh nhiều danh nhân kiệt xuất:

Nguyễn Trực: Trạng nguyên đầu tiên của khoa thi 1442.

Lương Thế Vinh: Trạng nguyên năm 1463, nổi tiếng về toán học và Phật học.

Nguyễn Bỉnh Khiêm: Trạng nguyên khoa 1535, hiệu Trạng Trình, nhà tiên tri nổi tiếng.

Trịnh Tuệ: Trạng nguyên năm 1736, vị Trạng nguyên cuối cùng trong lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam.

Những bậc khoa bảng này vừa làm rạng danh nền học vấn dân tộc, vừa để lại di sản văn hóa – tri thức lâu dài.

Nền khoa cử Việt Nam, qua các di sản tư liệu như Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám, không chỉ phản ánh quá trình hình thành và phát triển của một nền giáo dục phong kiến mà còn thể hiện tư tưởng trọng hiền tài của cha ông. Đây là minh chứng lịch sử cho khát vọng xây dựng một xã hội trọng học, lấy nhân tài làm gốc rễ quốc gia.

Ngày nay, những di sản ấy vẫn có giá trị to lớn trong việc giáo dục truyền thống hiếu học, tôn vinh trí tuệ dân tộc, đồng thời là nguồn tư liệu quý giá để nghiên cứu lịch sử giáo dục và văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập toàn cầu.

Tài liệu tham khảo: 

1. Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 3, 15, 22, 23, 32, 43 – Trung tâm LTQGIV;

2. Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 5, 11, 15 – Trung tâm LTQGIV;

3. Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập, quyển 4 – Trung tâm LTQGIV.

Khánh Vy