Lễ hội Tịch điền (Nguồn: TTXVN)

Tịch điền (籍 田) theo từ điển Hán Việt có nghĩa là ruộng do vua hoặc các quan thay mặt vua, đích thân ra cày cấy để làm gương, khuyến khích việc trồng trọt phát triển. Lễ Tịch điền thường được tổ chức vào mùa xuân hoặc mùa hạ hàng năm nhằm mục đích khích lệ người nông dân lấy nghề nông làm gốc, đặc biệt là nền nông nghiệp lúa nước.

Ở Việt Nam lễ Tịch điền được tổ chức lần đầu tiên dưới triều đại nhà Lê, Sách khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: Mùa xuân, năm Đinh Hợi 987 vua Lê Đại Hành lần đầu cày ruộng Tịch điền ở núi Đọi([1]) được một hũ nhỏ vàng. Lại cày ở núi Bàn Hải, được một hũ bạc nhỏ, nhân đó đặt tên là ruộng Kim Ngân. Đây là lễ Tịch điền đầu tiên mà một vị vua thân hành đi cày được sử sách ghi nhận lại.

  Bản dập sách khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi lại sự kiện vua Lê Đại Hành cày ruộng Tịch điền ở núi Đọi (Nguồn: TTLTQGIV)

Sau đó đến thời nhà Lý, các lễ này được tổ chức long trọng hơn và là một trong những ngày hội chính của đất nước. Đặc biệt vua Lý Thái Tông là người rất chăm lo cho nông nghiệp nước nhà, vua đã nhiều lần tự mình xuống ruộng cày:

“Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua ngự đến Tín Hương ở Đỗ Động giang cày ruộng Tịch điền, có nhà nông dâng một cây lúa chiêm có 9 bông thóc. Xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên…” (ngày 1 tháng 4 năm Nhâm Thân, 1032).

Đến năm Mậu Dần (1038), sự kiện vua Lý Thái Tông đi cày ruộng được mô tả kỹ lưỡng hơn: Mùa xuân, tháng 2, vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng Tịch điền. Sai Hữu ty dọn cỏ đắp đàn. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế? Vua nói: Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo? Nói xong đẩy cày ba lần rồi thôi.

Bản dập sách khâm định Việt sử thông giám cương mục  ghi lại sự kiện vua Lý Thánh Tông cày ruộng Tịch điền ở cửa Bố Hải (Nguồn: TTLTQGIV)

Đến mùa Xuân năm Nhâm Ngọ (1042), sử lại viết việc vua Thái Tông tiếp tục thực hiện nghi thức này: Mùa xuân, tháng 3 vua ngự ra cửa biển Kha Lãm cày ruộng Tịch điền rồi về Kinh sư.

Những việc làm ấy của vua Lý Thái Tông được Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: Vua Lý Thái Tông khôi phục lễ cổ, tự mình cày ruộng Tịch điền để nêu gương cho thiên hạ, trên để cúng tông miếu, dưới để nuôi muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến dân đông, của giàu,…!

Sử không ghi chép việc các vua đời Trần cày ruộng Tịch điền như thế nào. Đời Hậu Lê, năm Hồng Đức thứ 15 (1484), sử chép việc vua Thánh Tông dựng đàn Tiên Nông ở khu vực làng Hồng Mai, ngoài thành Thăng Long. Hàng năm, vào tháng giữa mùa Xuân, vua và các quan cúng tế Thần Nông và làm lễ Tịch điền. Nhà vua đích thân cầm cày để cày ruộng

Dưới vương triều Nguyễn, lễ hội này được khôi phục lại, tổ chức quy củ và long trọng hơn xưa. Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ có chép vào tháng 2 năm Mậu Tý (1828), vua Minh Mệnh đã ban hành lời Dụ về việc cày ruộng Tịch điền.

Vua bảo bầy tôi rằng: “Ðời xưa vua cày ruộng Tịch điền, để lấy gạo làm xôi tế Giao Miếu, nhân thể để xét thời tiết làm ruộng khuyên giúp nông dân, thực là việc lớn trong vương chính. Cái điển ba đường cày, sách vở còn chứng. Nước ta đời Trần đời Lê bị gián hoặc có làm nghi điển ấy, nhưng phần nhiều giản lược. Trẫm từ thân chính đến nay, chăm nghĩ đến dân, thường lấy việc dạy dân chăm nghề gốc làm gấp. Hiện nay triều đình nhàn rỗi, giảng tìm phép xưa, thực là việc nên làm trước. Nên chọn đất ở Kinh thành làm chỗ Tịch điền. Bèn sai đặt ở hai phường Hậu Sinh và An Trạch, bên tả dựng đài Quan canh, đằng trước làm ruộng đế tịch, đằng sau làm điện thay áo, bên hữu đặt đàn Tiên Nông và đình Thần Thương thu thóc. Sai Trung quân Tống Phước Lương coi làm. Thưởng tiền cho thợ và biền binh làm việc 5.000 quan. Lại đặt sở Diễn canh (tập cày) ở phía Bắc cung Khánh Ninh, gọi là vườn Vĩnh Trạch. Sai bộ Lễ bàn định điển lệ. Hàng năm cứ tháng trọng Hạ (tháng 5) chọn ngày tốt làm lễ”.

 Vua Minh Mệnh xét lại các nghi thức cử hành đại lễ này dưới các triều đại trước và cho rằng nghi lễ còn quá giản lược nên đã giao cho bộ Lễ soạn thảo chu đáo các điển lễ làm thành luật lệ lâu dài.

Trước 5 ngày, Vua ngự ở vườn Vĩnh Trạch xem tập cày. Trước 1 ngày quan phủ Thừa Thiên lĩnh đệ 1 cái roi, 1 cái cày, 1 thùng thóc đặt lên án vàng trên thềm giữa điện Cần Chính. Vua thân xem đồ nông cụ xong, quan bộ Hộ mang giao cho quan phủ Thừa Thiên nhận mang ra cửa Tả Túc, đặt vào long đình. Nghi trượng nhã nhạc dẫn trước, tàn lọng che lên, đến cửa Tả Đoan. Rồi lấy roi, cày, thúng thóc chia làm 12 phần, đặt ở Thái đình, theo thứ tự đi sau đến ruộng Tịch điền, chiếu thứ vị bày ra, giờ Tỵ ngày hôm ấy, vua đến Cung Khánh Ninh trú chân. Biền binh đứng bày hàng ở tả hữu đường vua đi. Lại bày lính và voi cờ súng ống ở ngoài tường ruộng Tịch điền. Giờ Tý ngày ấy, Hữu ty bày lễ phẩm lên đàn Tiên Nông. Canh năm, trống nghiêm ba hồi, thị vệ bày lỗ bộ ở ngoài cửa cung Khánh Ninh. Đến giờ Mão vua đội mũ cửu long, áo hoàng bào, đai ngọc lên kiệu, người dẫn trước, người theo sau đúng nghi vệ. Nhã nhạc có bày nhưng không cử. Đến tường phía Nam đàn Tiên Nông, các quan mang mũ áo thường triều quỳ đón ở phía trong cửa phường. Vua đến bên đông đường thần lộ xuống kiệu vào tế. Tế xong vua ngự đến điện cụ phục thay mang mũ Đường cân cửu long, áo long bào chẽn tay, thắt đai ngọc. Bộ Lễ xin làm lễ cày Tịch điền. Vua đến chỗ cày, đứng trông hướng nam, các quan đứng chầu ở tả hữu đài Quan Canh; quan Thái Thường tự xướng, quan bộ Lễ dâng cày, quan phủ Thừa Thiên dâng roi. Vua tay phải cầm cày, tay trái cầm roi, kỳ lão và nông phu đều 2 người dắt trâu, thị vệ hai người đỡ cày. Ca sinh hát bài “Hòa từ”, nhạc sinh múa cờ màu, nhã nhạc cử nhạc. Phủ Thừa Thiên bưng thùng thóc đi theo. Hoàng tử cùng quan bộ Hộ đều cử một người theo sau vãi thóc. Vua cày 3 đường đi 3 đường lại xong, ngự lên đài quan canh. Các quan ở dưới đài chia hai bên đứng hầu. Các hoàng tử và thần công theo cày, đều đội mũ vàng mặc áo đỏ, cầm cày cầm roi cày 5 đường đi 5 đường lại, kế đến văn võ đại thần 9 người, quan văn đội mũ văn công, quan võ đội mũ hổ đầu, đều mặc áo lam, cùng cầm cày cầm roi cày 9 đường đi 9 đường lại. Đều dùng thuộc lại kinh huyện di theo sau bưng thùng thóc vãi thóc. Lễ xong vua ngự điện cụ phục, thay mặc áo long bào rộng tay, lên kiệu. Nhã nhạc nổi lên, các quan lại ở trong cửa phường quỳ tiễn. Vua về cung Khánh Ninh, các quan làm lễ khánh hạ, ban yến và ban thưởng theo thứ bậc. Quan phủ Thừa Thiên cho nông dân cày hết  số ruộng Tịch điền hơn 4 mẫu 4 sào, lấy hơn 2 mẫu 9 sào trồng lúa nếp, hơn 1 mẫu 4 sào trồng lúa tẻ, sau khi gặt lúa, quan phủ Thừa Thiên hội đồng với bộ Hộ chọn lúa giống để riêng, còn thừa thì cho vào kho Thần Thương, gặp các tiết lễ Giao Miếu thì thổi xôi.  Sau đấy hàng năm việc tế đàn Tiên Nông đều sai Kinh doãn khâm mạng làm lễ. Lễ cày ruộng Tịch điền nếu có quan phụng mạng làm thay, cùng những năm vua đi thăm địa phương thì cũng do Kinh doãn cày thay.

Bản dập mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ ghi chép lại các nghi thức tổ chức lễ Tịch điền (Nguồn: TTLTQGIV)

Đến thời vua Tự Đức, nghi lễ được chỉnh sửa cho bớt rườm rà và phù hợp với hoàn cảnh hơn. Từ nghi thức cho đến cách tổ chức, người được cày đều được quy định rất cụ thể, rõ ràng, nghiêm túc, thành kính vì nhà Nguyễn xem đây là một nghi lễ hết sức quan trọng thể hiện sự coi trọng nông nghiệp của nhà vua. Theo đó, sau nghi lễ, vua sẽ là người đầu tiên xuống ruộng cày, 3 lần đẩy cày đi, 3 lần đẩy cày lại, sau đó đến các vị hoàng công thân phiên, chỉ những người chức cao bổng hậu mới được tham dự, cày 5 lần rồi đến bá quan văn võ mỗi người cày 9 lần, cuối cùng là các vị kỳ lão hương thôn và lão nông tri điền…lần lượt cho đến khi kết thúc.

Không chỉ đích thân vua cày Tịch điền mà việc làm lễ Tịch điền tại các địa phương cũng được quy định và chuẩn bị rất kỹ càng. Vua Minh Mệnh quy định mỗi tỉnh, trấn đều đặt ba mẫu ruộng ở bên ngoài thành để làm ruộng Tịch điền, có đắp đàn Tiên Nông, xây kho Thần thương để lưu trữ thóc lúa trồng ở ruộng này để dùng vào lễ cúng tế. Mỗi năm khi trên bộ báo cho biết ngày cày Tịch điền, các viên Tổng đốc, Tuần phủ hay trấn quan đem các văn võ thuộc hạt, mặc triều phục, tới đàn Tiên nông làm lễ, sau đó viên quan đầu tỉnh đích thân cày 9 luống. Từ việc chọn ruộng đất đến việc chọn người dắt trâu, người vãi hạt… Điều này được ghi chép rõ tại quyển 81, sách Khâm định Đại nam hội điển sự lệ.

Sau khi nhà Nguyễn cáo chung, lễ hội này cũng bị gián đoạn một thời gian khá dài, đến năm 2009 phong tục tốt đẹp này được phục hồi lại. Vào năm 2010, lần đầu tiên chủ tịch nước Việt Nam (ông Nguyễn Minh Triết) đã khoác áo nông tự cầm cày thực hiện nghi lễ Tịch điền ở Đọi Sơn, Hà Nam. Kể từ đó, Lễ hội Tịch điền trở thành một phong tục được thực hiện một cách thành kính, trang trọng.

Trong nhiều năm trở lại đây, vào đầu xuân tỉnh Hà Nam đã phục dựng thành công, tái hiện lại truyền thống “Dĩ nông vi bản – lấy nghề nông làm gốc” để khuyến khích phát triển nông nghiệp. Các nghi thức Lễ hội được tổ chức trang trọng của với quy mô lớn, thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân. Việc tổ chức Lễ hội Tịch điền chứa đựng nhiều phong tục đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam, khơi dậy và giáo dục truyền thống văn hóa của dân tộc cho các thế hệ. Đây là truyền thống tốt đẹp của cha ông, từ vua đến người nông dân đều yêu lao động, cần cù trên mảnh đất quê hương.

([1]) Núi Đọi: tên chữ Hán là Đội Sơn hoặc Long Đội Sơn, ở xã Đại Sơn, huyện Duy Tiên nay thuộc tỉnh Hà Nam

TÀI LIỆU TAM KHẢO:

1.    Quốc sử quán triều Nguyễn Sách khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, năm 2007;

2.    Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, năm 2004;

3.    Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nxb Thuận Hóa; năm 2005;

4.    Hồ sơ H22/51, Mộc bản Triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

5.    Hồ sơ H60/1, Mộc bản Triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

6.    Hồ sơ H60/2, Mộc bản Triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

Bùi Thị Mai