Đại thần Tô Trân quê ở xã Hoa Cầu (Xuân Cầu), huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh năm Tân Hợi (1791), đỗ Cử nhân năm Ất Dậu (1825) và đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826).

Sau khi đỗ Tiến sĩ, Tô Trân được bổ chức Biên tu ở Hàn lâm viện rồi nhận chức Hộ tào. Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), ông được thăng chức Tuần phủ Định Tường. Giặc chiếm thành Định Tường, Tô Trân bị cách chức và bị phái đến quân thứ để gắng lập công chuộc tội.

Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), Tô Trân được phục chức, làm Án sát sứ Thái Nguyên. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Tô Trân được thăng chức Thái bộc tự khanh, sung chức Toản tu ở Quốc sử quán.

Năm Tự Đức thứ nhất (1847), ông được thăng làm Tả Tham tri bộ Lễ, nhưng vẫn lãnh chức Toản tu ở Quốc sử quán như cũ; lại sung làm Kinh diên nhật giảng quan. Đến lúc 70 tuổi, ông xin nghỉ hưu. Vua ban vàng, lụa và cho nghỉ. Ông mất năm nào không rõ.

Tô Trân là người thanh liêm, tiết nghĩa và rất nghiêm khắc. Khi làm Tuần phủ Định Tường, các thân hào rất sợ nhưng vẫn quý mến ông. Lúc Tô Trân ở Thái Nguyên, trong ty thuộc có người tham ô, ông biết được nên rất ghét. Người ấy xin yết kiến nhưng ông không chấp thuận nên người ấy rất sợ, rồi bảo có bệnh mà lánh đi ở nơi khác. Tô Trân lại thấy vùng biên giới nơi ấy ít người giỏi nên ông thường tập hợp học trò, làm thời khóa giảng dạy để chấn hưng việc học. Con của ông là Tô Châu, làm quan đến chức Thị độc học sĩ, sung chức Toản tu ở Quốc sử quán.

Mộc bản sách Đại Nam chính biên liệt truyện nhị tập, quyển 26, mặt khắc 14 ghi chép sự nghiệp của Đại thần Tô Trân

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Tô Trân là người hay chữ và rất được triều đình tin cẩn nên trong thời gian ông giữ chức Toản tu ở Quốc sử quán, ông được vua giao trực tiếp lo việc biên soạn bộ sách Đại Nam thực lục phần Chính biên, gồm: đệ nhất kỷ (đời vua Gia Long), đệ nhị kỷ (đời vua Minh Mạng), đệ tam kỷ (đời vua Thiệu Trị), dưới quyền của Tổng tài Quốc sử quán là Phan Thanh Giản. Đây là bộ sử quan trọng, vĩ đại nhất của triều Nguyễn được tổ chức biên soạn công phu và có phương pháp nhất lúc đó. Ngoài ra ông còn lo việc biên soạn bộ sách Minh Mạng chính yếu trong thời vua Minh Mạng.

Ngày Định Tường bị thất thủ, Tô Trân sống ẩn dật trong dân gian, ông có làm bài thơ 署 理 定 祥 巡 撫 蘇 珍 Thự lý Định Tường Tuần phủ Tô Trân để lại rồi đi. Đây là bài thơ không đơn giản chỉ ý từ biệt Định Tường, về sum họp với gia đình mà nó còn thể hiện sự tài hoa của Tô Trân. Bài thơ được viết theo lối “chiết tự”, phảng phất như lối xẩm ví, ý nghĩa rất tinh vi. Chiết tự là hình thức phân tích chữ Hán ra thành từng phần để thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu.

Mộc bản sách Quốc triều đăng khoa lục, quyển 1, mặt khắc 3 ghi chép về Đại thần Tô Trân và bài thơ Thự lý Định Tường Tuần phủ Tô Trân

 Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Bài thơ như sau:

Nguyên bản chữ Hán:

署 理 定 祥 巡 撫 蘇 珍

欲 罷 不 能 翥 羽 颺

分 田 分 土 不 分 王

家 應 有 疋 何 須 豕

禮 不 求 豐 只 用 羊

達 得 眾 人 榱 幸 出

操 存 一 手 自 無 當

魚 游 草 下 和 邊 穩

玉 軫 移 車 萃 一 堂

Phiên âm:

THỰ LÝ ĐỊNH TƯỜNG TUẦN PHỦ TÔ TRÂN

Dục bãi bất năng,  vũ dương

Phân điền, phân thổ, bất phân vương

Gia ưng hữu thất hà tu thỉ

Lễ bất cầu phong chỉ dụng dương

Đạt, đắc chúng nhân suy hạnh xuất

Thao, tồn nhất thủ tự vô đương

Ngư du thảo hạ hòa biên ổn

Ngọc chẩn di xa tụy nhất đường.

Dịch nghĩa:

TẠM GIỮ CHỨC TUẦN PHỦ ĐỊNH TƯỜNG LÀ TÔ TRÂN

Muốn thôi mà không được, cánh cứ tung bay

Chia ruộng, chia đất, không chia vua

Nhà đã có nếp cần gì lợn

Lễ chẳng cần to chỉ dùng dê

Thông suốt, được mọi người khen là may thoát

Nắm giữ, còn một tay cũng không nên

Cá chơi dưới cây cỏ và lúa bên cạnh được yên ổn

Xe ngọc dời về họp một nhà.

Cách chiết tự thể hiện ở đây là:

Chữ bãi 罷 mà bỏ chữ năng 能, chữ chứ 翥 mà bỏ chữ vũ 羽, tức là chữ thự 署.

Chữ điền 田, chữ thổ 土 và chữ vương 王 hợp lại thành chữ lý 理.

Chữ gia 家 mà có bộ thất 疋, bỏ bộ thỉ 豕 tức là chữ định 定.

Chữ lễ 禮 nhưng bỏ chữ phong 豐, thêm chữ dương 羊 tức là chữ tường 祥.

Chữ đạt 達 thêm 3 chữ nhân 人 và bỏ chữ hạnh 幸 thành chữ tuần 巡.

Chữ thao 操 chỉ giữ lại bộ thủ 扌, thêm chữ vô 無 vào tức là chữ phủ 撫.

Chữ ngư 魚 ở dưới bộ thảo 艹 , bên cạnh là chữ hòa 禾 thì thành chữ Tô 蘇.

Chữ chẩn 軫 mà bỏ chữ xa 車 rồi hợp với chữ ngọc 玉 thì thành chữ Trân 珍.

Tức là nói kín 8 chữ 署 理 定 祥 巡 撫 蘇 珍 “Thự lý Định Tường Tuần phủ Tô Trân” (Tạm giữ chức Tuần phủ Định Tường là Tô Trân).

Bài thơ này ngoài ý từ biệt tỉnh Định Tường về nghỉ, Tô Trân có đại tài lỗi lạc, dùng 8 câu thơ, mỗi câu tả tự dạng một chữ, có trật tự phân minh, mà thành 8 chữ: Thự lý Định Tường Tuần phủ Tô Trân. Xem mỗi câu về cách tả tự dạng, chẳng khác gì họa sĩ vẽ hình dạng từng chữ, rất tài tình. Bài thơ còn có ý nghĩa khác là ông về sum họp với gia đình. Đây là bài thơ vừa có nghệ thuật hội họa, vừa có giá trị nghệ thuật thơ.

Tô Trân từng được vua Tự Đức khen là hiểu biết sâu rộng, mỗi khi giảng bài ở Kinh diên thường đưa ra nhiều sách để diễn giải và có nhiều cách hiểu mới. Vua Tự Đức rất quý trọng tài năng của ông nên thường có nhiều ưu ái. Khi ông về hưu, vua ban thêm cho 5 tấm lụa và 40 lạng bạc.

Thơ làm theo lối chiết tự không phải ai cũng làm được, nó thể hiện tài trí của người làm thơ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng vận dụng nó để nói lên hoài bão của mình qua bài thơ Chiết tự trong tập Nhật ký trong tù. Tô Trân – một danh thần của triều Nguyễn không chỉ được ca ngợi về đức mà cả về tài./.

Tài liệu tham khảo:

1.     Hồ sơ H17/26, Đại Nam chính biên liệt truyện nhị tập, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

2.     Hồ sơ H62A/1, Quốc triều đăng khoa lục, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

3.     Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Nxb Thuận Hóa, 2006.

4.     Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, 2004.

5.     Cao Xuân Dục, Quốc triều khoa bảng lục, Nxb Văn học, 2001.

Nhật Phương