Tại Đà Lạt có hai con đường mang tên hai vị công thần trung thành, dũng cảm, tài giỏi của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là Yết Kiêu và Dã Tượng, đây là những vị anh hùng có công lớn giúp nhà Trần chống giặc Mông Nguyên vào thế kỷ XIII. Có thể nói trong lịch sử dân tộc Việt Nam, việc quân đội nhà Trần ba lần chặn đứng vó ngựa của đạo quân xâm lược khét tiếng hung hãn nhất thế giới, đã tạo ra kỳ tích của một nước nhỏ nhưng không yếu, ghi dấu ấn vào trang sử vẻ vang về tinh thần chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Có được thành công đó, chính là nhờ vào tinh thần đoàn kết, bất khuất của những con người kể như rất đời thường, nhưng đã để lại cho lịch sử hôm nay và mai sau bài học sâu sắc về lòng quyết tâm chống giặc ngoại xâm và một tinh thần Việt Nam quật khởi. Câu chuyện về hai gia thần thân tín của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn khắc trong Mộc bản sách “Đại Việt Sử ký toàn thư-Di sản tư liệu thế giới” đang bảo quản tại Trung tâm lưu trữ quốc gia IV là một minh chứng hào hùng về con người và dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, một sự trùng hợp ngẫu nhiên đó là con đường mang tên Yết Kiêu chính là nơi mà trụ sở Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV đang tọa lạc, nơi đây đã trở thành điểm đến yêu thích về lịch sử, văn hóa của du khách mỗi khi đặt chân đến thành phố hoa Đà Lạt. Trong quá trình nghiên cứu, với mục đích “ôn cố tri tân”, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến độc giả hai nhân vật lịch sử, dù họ chỉ là những gia nô, song sự trung thành và lòng quả cảm của họ đã được sử  sách khắc ghi.

 Yết Kiêu là người có biệt tài thủy chiến. Dã tượng là người có biệt tài thuần phục và chỉ huy đội voi rừng. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên hai ông đã lập được nhiều chiến công hiển hách, góp phần làm nên nhiều chiến thắng vang dội. Yết Kiêu, Dã Tượng cùng với Cao Mang, Đại Hành và Nguyễn Địa Lô đã trở thành năm thuộc hạ tài giỏi và trung thành của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Năm 1285, khi quân Nguyên ồ ạt kéo sang xâm lược nước ta lần thứ 2. Trong trận đánh này, đã ghi dấu trong lịch sử một câu chuyện hết sức cảm động về sự trung thành của Yết Kiêu đối với chủ tướng, đây cũng là nhân tố giúp cho đội quân Đại Việt thoát khỏi việc bị bao vây của quân giặc, từng bước giữ được thế trận, giành thắng lợi về sau. Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi: Trong trận chiến ở Bãi Tân, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dùng thuyền ra trận, ông giao cho Yết Kiêu ở lại giữ thuyền chốt chặn, còn Dã Tượng đi theo hộ vệ. Do sức mạnh của quân địch quá lớn, quân nhà Trần đã không cản nổi bước tiễn vũ bão của quân giặc, thủy quân đóng ở Bãi Tân làm chặn hậu cũng chạy tan tác cả. Trong lúc tháo lui khẩn cấp, Hưng Đạo Vương định dẫn quân rút lui theo đường rừng về Vạn Kiếp. Dã Tượng thấy vậy liền thưa: “Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không chịu rời thuyền”. Hưng Đạo Vương liền quay lại Bãi Tân, quả nhiên vẫn thấy Yết Kiêu cắm thuyền đứng đợi, bất chấp hiểm nguy có thể xảy đến. Vừa vui mừng, vừa cảm động, Hưng Đạo Vương đã thốt lên rằng: “Chim Hồng Hộc muốn bay cao tất phải nhờ ở sáu trụ xương cánh. Nếu không có sáu trụ xương cánh ấy thì cũng chỉ như chim thường thôi”.

Nguyên văn Mộc bản khắc: “Sơ Hưng Đạo Vương hữu nô Dã Tượng, Yết Kiêu, đãi chi thâm hậu. Cập Nguyên binh chí, Yết Kiêu, đãi chi thuyền vu bãi Tân, Dã Tượng tòng hành.  Cập quan quân thất lợi chu sư giai tán. Vương dục tòng sợn cước. Dã tượng viết: Yết Kiêu vị kiến Đại Vương tất bất di thuyền. Vương di bãi Tân, duy Yết Kiêu thuyền thượng tại. Vương hỉ viết: phu Hồng Hộc cao phi tất tư lục cách, túng vô lục cách nãi phàm điểu nhĩ. Ngôn ngật khai thuyền tặc kỵ nhiếp hậu bất cập. Vương chí Vạn Kiếp phân quân truân cứ Bắc Giang”.

Bản dập tài liệu Mộc bản khắc về hai vị anh hùng Yết Kiêu và Dã Tượng

 Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Dịch nghĩa: “Trước đây, Hưng Đạo Vương có người nô là Dã Tượng và Yết Kiêu1 được đối xử rất hậu. Khi quân Nguyên sang xâm chiếm, Yết Kiêu được giao trong trách giữ thuyền ở Bãi Tân2, Dã Tượng thì đi theo Hưng Đạo Vương. Đến lúc quan quân thua trận, thủy quân tan cả. Hưng Đạo Vương định rút theo lối chân núi. Dã Tượng liền thưa: “Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không chịu rời thuyền”. Hưng Đạo Vương liền quay về Bãi Tân, quả nhiên chỉ thấy có thuyền Yết Kiêu vẫn đậu ở đó. Hưng Đạo Vương mừng lắm, thốt lên: “Ôi! Chim Hồng Hộc muốn bay cao, tất phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh thì cũng chỉ là chim thường thôi”. Nói xong liền cho chèo thuyền đi, kỵ binh giặc đuổi theo không kịp. Hưng Đạo Vương đến Vạn Kiếp, chia quân đóng giữ ở Bắc Giang3.

Trong các giai thoại lịch sử Việt Nam còn chép về hai ông như sau: Yết Kiêu dùng tài bơi lặn của mình để xâm nhập sâu vào hàng ngũ địch, đục thủng và đánh chìm các thuyền chiến của giặc, mang lại nhiều chiến công vang dội, đóng góp lớn cho các cuộc kháng chiến. Mùa đông, Yết Kiêu đã không quản giá rét, đêm đêm lặn xuống biển, nằm dưới đáy thuyền, lấy dùi sắt nhọn đục thủng thuyền. Thuyền giặc bị nước biển chảy ồ ạt vào, chìm ngay. Quân giặc sợ lắm. Lúc đầu chúng không hiểu vì lẽ gì. Sau giặc giăng lưới vây bắt được Yết Kiêu. Chúng hỏi ông: “Nước mày có bao nhiêu người có tài bơi lặn như mày?” Ông đáp: Nước Nam có rất nhiều người có tài bơi lặn như tôi. Hiện nay họ vẫn ẩn nấp ở dưới biển để đục thuyền, chỉ có mình tội chẳng may bị bắt. Nếu các ông tha tôi ra, tôi sẽ dẫn đến chỗ họ ẩn nấp. Bọn giặc tưởng thật, chúng lấy một chiếc thuyền nhẹ chở ông đi. Thừa lúc giặc sơ ý, ông liền nhảy xuống biển, lặn trốn về doanh trại, tiếp tục cùng quân dân ta đánh giặc cứu nước.

Năm 1288, trên đường hành quân chuẩn bị cho trận Bạch Đằng lịch sử, con voi chở Hưng Đạo Vương bị sa lầy, chìm dần xuống bùn. Dù đã dùng nhiều cách nhưng rồi con voi chiến thân thiết của Hưng Đạo Vương cứ lún dần, lún dần. Dã Tượng và Hưng Đạo Vương nhìn người bạn đường chiến đấu sắp hy sinh mà quặn lòng đau xót. Dã Tượng bèn quỳ xuống trước mặt Hưng Đạo Vương xin người lên ngựa đi tiếp cho kịp ra quân, còn mình ở lại rồi sẽ đuổi theo sau. Trong trận đánh đó, Dã Tượng giữ một cánh quân trên núi Tràng Kênh, đánh tan đám quân của Phàn Tiếp, máu giặc nhuộm đỏ cả khúc sông, Dã Tượng chiến đấu với địch như chỗ không người, khiến cho Phàn Tiếp khiếp sợ bỏ lính, để nguyên tên găm trên người nhảy xuống sông chạy trốn, nhưng vẫn bị quân Trần bắt sống. Trận quyết chiến Bạch Đằng thắng lợi, toàn bộ đạo quân của địch đã bị tiêu diệt và bị nhấm chìm trong sóng nước. Cuộc kháng chiến lần thứ ba của quân dân Đại Việt giành được thắng lợi rực rỡ. Từ đó giặc Nguyên Mông từ bỏ ý đồ xâm lược nước ta.

 Có thể nói, sức mạnh của nước Đại Việt thời Trần bắt nguồn từ sức sống mãnh liệt, từ lòng yêu nước trong từng cá nhân, dù họ chỉ là những gia nô, nhưng với chí khí đấu tranh bất khuất, tinh thần đoàn kết và lòng trung thành tuyệt đối đã giúp cho đội quân của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bách chiến bách thắng, ba lần đánh thắng đạo quân xâm lược hung hãn nhất thời đại, quét sạch bè lũ xâm lược ra khỏi bờ cõi, đem lại hòa bình ấm no cho nhân dân. Yết Kiêu và Dã Tượng đã trở thành những vị anh hùng tận trung vì đại nghĩa cứu nước, xứng đáng sánh ngang hàng với các bậc hào kiệt trong lịch sử, là những tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau.

Chú thích:

1. Dã Tượng: nghĩa là voi rừng. Yết Kiêu : là tên loài chó săn ngắn mõm. Dùng tên muông thú đặt cho người, nghĩa là nói lên địa vị làm nô thấp kém của họ. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên đời trần, các nô tỳ có một vai trò rất lớn.

2. Bãi Tân : là một địa điểm trên sông Lục Nam.

3. Bắc Giang : tức là vùng đất tỉnh Bắc Ninh.

Tài liệu tham khảo:

1.     Mộc bản Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Nhân Tông kỷ, quyển 5

2.     Việt Sử giai thoại, Nguyễn Khắc Thuần, Nxb Giáo dục.

Phạm Thi Yến – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Đăng trên Tạp chí VTLT VN số 11/2014