Phan Bội Châu, hiệu là Sào Nam, sinh năm Đinh Mão (1867) tại làng Đan Nhiễm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Phan Bội Châu được biết đến là nhà yêu nước lỗi lạc, là người sáng lập nên phong trào Đông Du, kêu gọi thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập, chờ thời cơ giành lại độc lập cho nước nhà. Cả cuộc đời Cụ đã nếm mật nằm gai, bôn ba nơi hải ngoại để mưu cầu tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Qua hồ sơ lưu trữ thuộc phông Toà Đại biểu chánh phủ tại Trung nguyên Trung phần và phông Phủ Thủ hiến Trung Việt hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV để hiểu hơn về con người Phan Bội Châu cũng như tình cảm yêu mến của người dân Việt Nam dành cho cụ Phan Bội Châu ngay cả khi cụ đã mất.

Những năm tháng cuối đời ở Huế

Sau nhiều thập niên hoạt động cách mạng, tháng 5 năm 1925, Phan Bội Châu khi đang từ Hàng Châu lên Thượng Hải gởi tiền cho một lưu học sinh ở Đức, đã bị Nguyễn Thượng Huyến, một người đã từng chịu ơn nuôi dưỡng phản trắc đem mật báo việc hành trình của Phan Bội Châu với người Pháp. Khi đến ga Thượng Hải, ra sân ga, Phan Bội Châu thấy bốn người Pháp đang ngồi trên một chiếc ô tô. Một người xuống nói tiếng Trung Quốc với ông Phan rằng: “Xe này tốt, mời ông lên đi”. Phan Bội Châu trả lời: “Tôi không cần”. Thế rồi một người Pháp khác từ trên xe nhảy xuống ôm choàng lấy Phan Bội Châu kéo lên. Sau đó, người Pháp đưa Phan Bội Châu lên một chiếc tàu rồi chở về Hà Nội.

Tại Hà Nội, trước Hội đồng Đề hình Bắc Kỳ ngày 12 tháng 7 năm 1925, Phan Bội Châu đã khẳng khái tố cáo chính sách hiện hành của người Pháp và nói rõ bổn phận của mình là làm cách mạng để cứu nước, cứu dân. Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ là Varence thấy việc làm của Phan Bội Châu là chính đại quang minh, nếu giết Phan Bội Châu sẽ gây ảnh hưởng xấu đến thanh danh nước Pháp, Ngoài ra do áp lực đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân trong nước và quốc tế, nên ông Varence đã thương nghị với Pháp đổi án tử hình thành khổ sai chung thân rồi lại tha bổng đưa về Huế giam lỏng trong một túp lều tranh ở Bến Ngự.

Trong 15 năm cuối đời (1925-1940), Phan Bội Châu sống trong sự giám sát chặt chẽ của mật thám Pháp, nhưng vẫn giữ tư cách một nhà yêu nước, tiếp tục ảnh hưởng đến giới trí thức và phong trào cách mạng.

Từ ngày bị giam lỏng, Cụ Phan không còn ôm mộng xuất dương được nữa. Lúc này, Phan Bội Châu chuyên tâm viết văn, làm thơ nói rõ nỗi khổ nhục của người dân mất nước. Phan Bội Châu muốn dùng ngòi bút để chỉ lối cho phường hậu bối. Nhưng khốn thay người vì nước vì dân thì ít, mà kẻ ham danh mê lợi lại quá nhiều nên tiếng kêu của Cụ Phan cũng như giữa vùng sa mạc. Và kể từ năm 1935 trở đi, vì tuổi già sức yếu, ý nguyện thì chưa đạt được, Cụ Phan Bội Châu đã bắt đầu lâm bệnh. Ngày ngày, chỉ làm bạn với chén rượu, câu thơ trên mặt nước sông Hương. Bệnh mỗi ngày một tăng, Cụ Phan lại không chịu uống thuốc, ăn cơm mặc cho ai khuyên nhủ. Đến ngày 29 tháng 9 năm 1940, Cụ Phan tạ thế giữa những người bạn tâm giao như Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Cụ Võ Bá Hạp.., hưởng thọ 74 tuổi và được an táng trong vườn nhà ở Huế.

Mộc bản sách Quốc triều Hương khoa lục, quyển 5, mặt khắc 33 khắc tên Cụ Phan Bội Châu đỗ đầu khoa thi Hương (Cử nhân) năm Canh Tý, niên hiệu Thành Thái thứ 12 (1900). Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Trùng tu nhà thờ Cụ Phan Bội Châu

Sau khi cụ Phan qua đời, với số tiền phúng điếu của đồng bào cả nước, được Huỳnh Thúc Kháng đứng ra xây dựng ngôi mộ và nhà thờ cho người bạn của mình. Đến năm 1955, với tình cảm thương mến và biết ơn Cụ Phan, nhân dân Thừa Thiên nói riêng cũng như người dân cả nước nói chung lại tiếp tục tự nguyện quyên góp để cùng nhau trùng tu lại nhà thờ vào năm 1954 -1955. Công việc được chuẩn bị chu đáo và nghiêm túc.

Ngày 25 tháng 10 năm 1954, vào lúc 9 giờ sáng, tại mộ phần của Phan Bội Châu, tất cả 50 người gồm một số cán bộ cao cấp bên hành chánh Trung Việt và các thân sĩ, trí thức đã làm lễ huý nhật đệ thập ngũ chu niên cho Phan Tiên sinh. Buổi lễ hôm đó được cử hành một cách đơn giản nhưng rất đỗi trang nghiêm. 10 giờ sáng, sau khi lễ xong, các quan khách đã cùng nhau dự tiệc trà và thảo luận việc trùng tu lại nhà thờ của Nhà chí sĩ. Kết quả của cuộc thảo luận đã đem đến việc ra đời một ban trùng tu nhà thờ gồm có Trưởng ban là ông Nguyễn Diệu, Phó trưởng ban là ông Võ Như Nguyện, thủ quỹ là ông Nguyễn Văn Đông, thư ký là ông Lê Khắc Duyệt cùng với 5 uỷ viên khác. Ban này được gọi tên là “Uỷ ban phụ trách trùng tu nhà thờ Phan Bội Châu tiên sinh”.

Sau khi được thành lập, mỗi người trong Uỷ ban phụ trách trùng tu nhà thờ Phan Bội Châu tiên sinh đều dành một phần tiền để gửi vào quỹ chung. Đồng thời, Uỷ ban này cũng gửi thư đến các Ban khác thông báo cũng như kêu gọi tinh thần ủng hộ trùng tu nhà thờ. Đến ngày 7 tháng 2 năm 1955, Ban tác động tinh thần Nha Cảnh sát và Công an Trung Việt đã gửi công văn đến các ban như Ban tác động tinh thần nha sở Huế, Ban hướng dẫn công chức các tỉnh, thị xã Trung Việt, Ban hướng dẫn công chức Trung Việt ở Huế về việc kêu gọi quyên góp, hưởng ứng việc trùng tu nhà thờ Phan tiên sinh, trong đó có đoạn như sau: “Ban Tác động của chúng tôi có tiếp nhận được thư của Uỷ ban phụ trách trùng tu nhà thờ Phan Bội Châu tiên sinh. Đề cao tinh thần hy sinh tranh đấu của Sào Nam tiên sinh cho công cuộc mưu sự giành độc lập cho quốc gia dân tộc. Đồng thời thành khẩn kêu gọi sự hưởng ứng, ủng hộ và giúp đỡ tuỳ theo năng lực của toàn thể đồng bào vào công cuộc trùng tu lại ngôi nhà thờ Tiên sinh cho xứng đáng hơn để kỷ niệm bậc danh nhân đất nước. Sự sùng thượng những danh nhân ái quốc hay anh hùng dân tộc cũng là một việc làm rất có ích cho đại cuộc, nhất là để cho dân tộc các nước bạn càng nhận thấy rõ hơn tinh thần ngưỡng mộ và suy tôn của dân tộc Việt Nam đối với các bậc tiền bối. Đứng về phương diện tác động tinh thần công chức của Nha Cảnh sát và Công an quốc gia Trung Việt, Ban tác động chúng tôi nhận thấy anh chị em công chức của Nha chúng tôi nói riêng và toàn thể giới công chức Trung Việt nói chung, chúng ta cần phải đóng góp về cả hai phương diện tinh thần và vật chất vào công cuộc đầy ý nghĩa do lời kêu gọi của uỷ ban nói trên. Nên Ban tác động chúng tôi mạn phép yêu cầu Quý ban tác động hướng dẫn, cổ động rộng rãi và khuyến khích toàn thể nhân viên thuộc Quý ban tại mỗi Nha, Sở, Tỉnh, Ty hưởng ứng triệt để sự giúp đỡ cho việc trùng tu lại ngôi nhà thờ Sào Nam tiên sinh chóng được thực hiện. Kính chào quyết tâm hưởng ứng”.

Ban tác động tinh thần Nha Cảnh sát và Công an Trung Việt, gửi thư thông báo, kêu gọi các Ban khác ủng hộ trùng tu nhà thờ Phan Bội Châu tiên sinh. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Không chỉ gửi đến các ban, sở, Uỷ ban phụ trách trùng tu nhà thờ Phan Bội Châu tiên sinh còn nhờ báo chí cổ động cho phong trào gây quỹ: “Chúng tôi đã nhờ các báo chí nâng đỡ bằng cách cổ động rộng rãi trong các tầng lớp dân chúng cũng như các cơ quan, đoàn thể ủng hộ chúng tôi về phương diện tài chánh, ngõ hầu thu hoạch được một số tiền khả dĩ xây dựng một nhà thờ tương đối xứng đáng với công đức cao cả của Phan Sào Nam tiên sinh”.

Sau khi thông tin được truyền đi rộng rãi, khắp mọi nơi, công chức các Nha, Sở, Tỉnh, Ty đều hăng hái góp tiền ủng hộ việc trùng tu nhà thờ Phan Sào Nam ở Huế. Ngày 16 tháng 2 năm ấy, Ban Tác động Tinh thần sở Nhân viên đã kính gửi Ban Tác động Tinh thần Nha Cảnh sát và Công an Trung Việt nội dung như sau: “Hưởng ứng tư văn số 965 -CACY-VP-I chiếu thượng, chúng tôi trân trọng kính gởi theo đây số tiền 1.200 đồng của toàn thể công chức Sở nhân viên Trung Việt ủng hộ việc tu bổ nhà thờ Phan Sào Nam tiên sinh, kính nhờ Quý Ban nhận chuyển giao Uỷ ban phụ trách trùng tu nhà thờ ấy”. Hay như ngày 18 tháng 5 năm 1955, Tỉnh trưởng Ninh Thuận gửi Uỷ Ban đại biểu chính phủ tại Trung Việt: “Theo tư văn số 321-VP ngày 12/5/1955, ty Công an quốc gia Ninh Thuận có gởi cho Tỉnh tôi danh sách lạc quyên kèm theo số tiền là một nghìn một trăm năm mươi đồng do anh em công chức Ty công chánh Phan Rang lạc quyên để giúp vào viện trùng tu nhà thờ Cụ Phan Sào Nam”…. Ngoài ra, còn có đông đảo quần chúng nhân dân, người ít, kẻ nhiều cùng nhau quyên góp ủng hộ việc trùng tu nhà thờ.

Công chức Ban tác động tinh thần sở Nhân viên ủng hộ trùng tu nhà thờ cụ Phan Bội Châu một nghìn hai trăm đồng. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Bên cạnh việc kêu gọi người dân ủng hộ, vào ngày 27 và ngày 28 tháng 3 năm 1955, tại nhà riêng của Bác sĩ Thân Trọng Phước (đường Gia Long, Huế), Ban trùng tu nhà thờ Cụ Phan Sào Nam đã họp mặt bàn bạc và tổ chức 3 đêm kịch nhạc (đêm ngày 2,3,4 tháng 4/1955) tại rạp Gia Hội hí viện, lấy tiền giúp vào công cuộc trùng tu.

Đến ngày mồng 3 tháng 4 năm 1955, tại mộ phần Sào Nam Phan Bội Châu tiên sinh, trên dốc Bến Ngự đã cử hành lễ truy điệu và đặt đá đền thờ các chí sĩ tiền bối và Cụ Phan. Tham dự buổi lễ có Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt Nguyễn Đôn Duyến, Đại tá Nguyễn Quang Hoành Tư lệnh đệ nhị quân khu, ông Bửu Đài – Uỷ viên Hành chánh Trung Việt… cùng đông đảo người dân xứ Huế. Trong buổi lễ, Cụ Võ Mạnh Phát – một nhân sĩ lão thành thay mặt dân chúng lên đọc diễn văn ôn lại quá trình tranh đấu của Cụ Phan Sào Nam. Sau đó, đến lễ đặt đá và lễ viếng phần mộ Cụ Phan. Các quan khách được mời xem qua bức đồ án nhà thờ sắp xây dựng do Cụ Tôn Thất Sa trình bày. Bác sĩ Thân Trọng Phước được bầu làm Trưởng ban xây dựng.

Sau khi hoàn tất việc kêu gọi và tổng hợp công quỹ, công cuộc trùng tu nhà thờ Phan Tiên sinh đã được tiến hành. Bên cạnh việc chỉnh trang lại khuôn viên nhà thờ, trong đợt trùng tu này, Uỷ ban phụ trách trùng tu nhà thờ còn cho xây dựng thêm nhà Từ đường. Nhà Từ đường được xây là một ngôi nhà ngói to lớn, cao khoảng 8m, mái lợp ngói âm dương, mặt quay về phía lăng mộ Cụ Phan Bội Châu. Mặt trước Từ đường có biển đề hàng chữ “Từ đường các liệt sỹ tiền bối và Phan Bội Châu tiên sinh”. Hiện nay, ngôi Từ đường đã được Bảo tàng Lịch sử và cách mạng Thừa Thiên Huế sử dụng một phần để tổ chức trưng bày về thân thế, sự nghiệp của Cụ Phan. 

Có thể nói hình ảnh “Ông già Bến Ngự” đã khắc sâu trong tâm trí biết bao thế hệ người dân Việt Nam về lòng yêu nước và khí phách dân tộc. Dù khi còn tại thế hay đã đi vào cõi vĩnh hằng, tinh thần cách mạng, ý chí kiên cường và khát vọng độc lập tự do của Cụ Phan Bội Châu vẫn luôn tỏa sáng, trở thành ngọn đuốc soi đường cho muôn thế hệ mai sau tiếp bước noi theo./.

Tài liệu tham khảo.

1. Hồ sơ 3133, phông Toà Đại biểu Chánh phủ tại Trung nguyên Trung phần, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

2. Hồ sơ 2175, phông Phủ Thủ hiến Trung Việt, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

Cao Quang

(Dẫn từ nguồn Đặc san Khoa học Xã hội và Nhân văn Nghệ An, tháng 7, năm 2025)