Trong dòng chảy văn hóa Việt Nam, đạo hiếu và truyền thống kính lão luôn được xem là nền tảng của sự điều hành xã hội. Dưới triều Nguyễn, đặc biệt là thời vua Minh Mệnh (1820–1841), một chính sách đặc biệt được ban hành nhằm tri ân, tôn vinh và chăm sóc người cao tuổi, đó là việc ban thưởng cho người thọ cao, bao gồm cả quan lại và dân thường. Đây không chỉ là một hoạt động mang tính hình thức, mà là một phần trong chiến lược trị quốc, thể hiện rõ tư tưởng “dưỡng lão an dân” và khát vọng xây dựng một xã hội ổn định, đạo đức, gắn bó bền chặt giữa triều đình và nhân dân.
Chính sách này thể hiện tư tưởng đức trị nhân ái của nhà vua. Trong Chỉ dụ năm Minh Mệnh thứ 4 (1823), nhà vua khẳng định: “Thượng cổ đều lấy trăm tuổi là kỳ hạn. Song từ trước đến nay thọ đến 70 tuổi đã khen là ít có. Huống chi thọ tới 100 tuổi, được đến tuổi “kỳ dị” như thế thực là điều tốt của buổi thái bình. Trẫm mong nước và dân trường thọ để được thấm nhuần ơn lớn”. Từ quan niệm sâu sắc này, việc dưỡng lão không còn là trách nhiệm gia đình đơn lẻ mà trở thành phúc khí chung của xã tắc.
Vua Minh Mệnh đã thiết lập một chế độ ban thưởng có hệ thống và cấp bậc rõ ràng, kết hợp hài hòa giữa vật chất và danh dự tinh thần, được phân chia theo ba nhóm đối tượng: Quan Thọ với mức thưởng được phân hóa chi tiết, thể hiện sự tương xứng với địa vị trong cơ cấu triều đình “quan nhất nhị tam phẩm mà thọ đến 100 tuổi thì thưởng 100 lạng bạc, 10 tấm lụa; từ ngũ lục phẩm thì 80 lạng bạc, 8 tấm lụa; thất bát cửu phẩm thì 60 lạng bạc, 6 tấm lụa. Mệnh phụ thì chiếu phẩm mà giảm 1 phần 3”. Dân Thọ và Sĩ Lưu: “Còn như sĩ lưu, hương trưởng mà thọ 100 tuổi thì thưởng 30 lạng, vải lụa đều 5 tấm, cũng cho biển ngạch và dựng đình treo biển. Đàn ông thọ 100 tuổi thì thưởng 30 lạng bạc, vải lụa mỗi thứ 3 tấm, đàn bà thọ 100 tuổi thì thưởng 20 lạng bạc, lụa vải đều 2 tấm”.
Chính sách ban thưởng của vua Minh Mệnh còn thể hiện tư duy điều hành có tầm nhìn xa thông qua quy định tăng thưởng lũy tiến: “Thọ 110 tuổi thì thêm 50 lạng bạc, 5 tấm lụa; cứ thêm 10 tuổi thì số tiền lụa lại gấp đôi lên, thưởng cấp hậu thêm”. Điều này đã thể hiện sự ban cấp hậu hĩnh và khuyến khích người trường thọ một cách khoa học.
Bên cạnh thưởng cấp về vật chất thì phần thưởng tinh thần được đề cao nhằm tạo hiệu ứng giáo dục đạo lý trong cộng đồng: Người cao tuổi được cấp “biển ngạch” và được dựng đình treo biển tại làng (đối với quan lại, sĩ lưu). Biển ngạch của dân thường nam khắc hai chữ “Thọ dân”, trong khi của nữ khắc hai chữ “Trinh thọ” – vừa vinh danh tuổi thọ, vừa tôn vinh đức hạnh, tiết hạnh của người phụ nữ.
Mộc bản sách Đại Nam thực lục ghi chép về việc vua Minh Mệnh ban thưởng cho quan thọ và dân thọ năm Quý Mùi (1823)
Đặc biệt hơn nữa, vua Minh Mệnh còn yêu cầu các quan lại địa phương phải có trách nhiệm chủ động thăm hỏi người già, người lớn tuổi, thể hiện qua mệnh lệnh:“Quan thủ hiến và trưởng quan phủ huyện, thường phải hỏi thăm, đầu năm sai người đến nhà cấp rượu thịt, để tỏ rõ cái chí ưu dưỡng người già”.
Khi một số người thọ cao qua đời do địa phương tâu chậm, vua thẳng thắn khiển trách:“Tuổi tác là cái quý trong thiên hạ từ lâu… Nay địa phương kinh kỳ có người tuổi cao như thế mà lại để cho thân không kịp hưởng phúc trạch thái bình, đó là tội của quan địa phương”. Đây là cách thức tiêu biểu cho phong cách trị quốc của Minh Mệnh: có thưởng – có phạt, đồng thời cho thấy chính sách dưỡng lão là một phần không thể tách rời trong xây dựng xã hội ổn định, văn minh.
Dù đã ra đời cách đây hơn 200 năm, chính sách “Ưu dưỡng người già” của vua Minh Mệnh vẫn giữ nguyên tính thời sự và giá trị nhân văn sâu sắc. Nó khẳng định một nguyên tắc điều hành cốt lõi: chăm sóc người cao tuổi là trách nhiệm của quốc gia.
Ngày nay, các chính sách của nhà nước Việt Nam như trợ cấp xã hội, miễn phí bảo hiểm y tế cho người cao tuổi, và đặc biệt là việc tổ chức mừng thọ, cấp giấy mừng thọ, tặng quà cho người cao tuổi chính là sự tiếp nối truyền thống từ thời vua Minh Mệnh. Điều này một lần nữa khẳng định tư tưởng đức trị nhân ái và dưỡng lão kính già từ thời phong kiến không hề lạc hậu, mà chính là nền tảng văn hóa vững chắc cho các chính sách nhân sinh hiện đại, làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc và tinh thần nhân văn trong xã hội Việt Nam đương đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, năm 2004;
2. Hồ sơ H22/20, Mộc bản Triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
Bùi Mai