Trong tiến trình lịch sử hàng nghìn năm, các nhà nước quân chủ Việt Nam luôn nhận thức rõ vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội. Vì vậy, mỗi triều đại đều chú trọng xây dựng và ban hành luật lệ. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó có 4 bộ luật cổ nổi tiếng và có nhiều giá trị phải kể đến các bộ luật: Hình thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (còn gọi là bộ luật Hồng Ðức – thời Lê), và Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là bộ luật Gia Long) thời Nguyễn. Đây là những nền tảng quan trọng hình thành truyền thống pháp lý dân tộc từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX.
1. Hình thư thời Lý – Bộ luật thành văn đầu tiên của Việt Nam
Theo các cứ liệu lịch sử, trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Hình thư là bộ luật quốc gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời Lý. Trong Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 3, mặt khắc 4 có chép: “Năm 1042, Lý Thái Tông sai quan trung thư san định lệnh, châm chước những điều thời thế thông dụng, xếp thành môn loại, biên rõ điều mục, làm thành riêng quyển Hình thư một triều đại, để cho người xem dễ biết”.

Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 3, mặt khắc 4 ghi về việc vua Lý Thái Tông sai quan trung thư san định Hình thư, năm 1042.
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam. Căn cứ vào tư liệu Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì Hình thư là một bộ sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô của bộ luật này, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí thì Hình thư bao gồm 3 quyển. Nội dung ghi chép những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp.
2. Quốc triều Hình luật thời Trần – Bước phát triển của tư duy lập pháp
Kế thừa pháp luật thời Lý, triều Trần tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi, triều Trần đã định các điều luật lệnh và tiếp tục bổ sung vào các năm 1230, 1244. Trên cơ sở đó, năm 1341, vua Trần Dụ Tông đã sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạn bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Hình thư) gồm 1 quyển để ban hành.
Về nội dung, ngoài việc kế thừa những quy định đã có từ thời Lý, bộ luật Hình thư của triều Trần đã có những bổ sung và điều chỉnh, đặc biệt là những quy định về hình phạt, thủ tục tố tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản. Việc ban hành bộ Hình thư của triều Trần cũng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam.
3. Quốc triều Hình luật thời Lê (Bộ luật Hồng Đức) – Đỉnh cao pháp luật phong kiến Việt Nam
Bộ luật cổ quan trọng thứ ba trong lịch sử lập pháp Việt Nam phải kể đến là bộ Quốc triều Hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Ðức), được ban hành dưới triều vua Lê Thánh Tông vào năm 1483, trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các đời vua trước, được sửa chữa, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh.
Về quy mô của bộ luật Hồng Đức gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Nội dung của bộ luật này, ngoài những quy định chung, bộ luật còn quy dịnh các vấn đề cụ thể thuộc nhiều ngành luật như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nuớc thì “Quốc triều hình luật là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam”. Ðược ban hành trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, Quốc triều hình luật không chỉ là bộ luật chính thức của Việt Nam dưới thời Lê Sơ, mà còn được các triều đại khác sau này sử dụng cho đến hết thế kỷ XVIII.
4. Hoàng Việt Luật lệ (Bộ luật Gia Long) – Hệ thống pháp điển cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam
Và cho đến khi vua Gia Long lập ra triều Nguyễn vào năm 1802. Để củng cố chế độ phong kiến, bảo vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời gian dài biến động, ngay khi lên ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần thần biên soạn một bộ luật mới nhằm làm công cụ cho công cuộc trị nước lâu dài: “Các bậc đế vương trị nước, hình pháp đặt ra đã lâu. Hình pháp không đúng thì dân không có chỗ mà nắm. Nay luật lệ chưa định, pháp ty không theo vào đâu được, thực không phải ý “Khâm tuất minh doãn” ([1]) của trẫm. Bọn khanh nên hết lòng khảo xét những pháp lệnh điển lệ của triều, tham hợp với điều luật đời Hồng Đức và nước Đại Thanh, lấy bỏ cân nhắc mà làm thành sách. Trẫm sẽ tự sửa chữa cho đúng để ban hành”.
Người đứng đầu trong việc soạn thảo bộ luật này được giao cho Tiền quân Bắc thành là Tổng trấn Nguyễn Văn Thành làm tổng tài và có sự chỉ đạo trực tiếp của vua Gia Long. Dưới quyền của Nguyễn Văn Thành còn có hai Văn thần nữa là Vũ Trinh và Trần Hựu cũng tham gia biên soạn.
Bộ luật được biên soạn đến năm 1811 thì hoàn tất, năm 1812 khắc in lần đầu ở Trung Quốc với bài tựa của đương kim hoàng đế Gia Long. Theo như lời tựa thì chính nhà vua là người trực tiếp đọc duyệt, tu chỉnh lại, sau cùng mới cho phép khắc in và ban hành, áp dụng trên phạm vi toàn quốc.
Về quy mô của bộ Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là bộ luật Gia Long) bao gồm 398 điều. Các điều luật được phân loại và sắp xếp theo 6 lĩnh vực, tương ứng với nhiệm vụ của 6 Bộ, gồm các nội dung chính hình danh và phàm lệ 45 điều, luật lại 27 điều quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại, luật hộ 66 điều quy định về quản lý dân cư và đất đai , luật lễ 26 điều quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình, luật binh 58 điều quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng, luật hình 166 điều quy định về tội danh và hình phạt và luật công 10 điều quy định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm. Sách gồm 22 quyển.

Mộc bản khắc bìa sách bộ Hoàng Việt luật lệ. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Sách soạn xong, mãi đến tháng 8 năm 1815 (sau 3 năm) bộ luật mới được ban hành. Nhà vua xuống Chiếu cho khắp trong ngoài rằng: “Việc hình là để ngăn cấm giữ dân, có sáng rõ thì kẻ ngu ngoan mới biết đường đi lối tránh. Pháp luật là của chung thiên hạ, có nhất định thì quan lại mới biết có chỗ nắm theo. Quốc triều ta từ trước xử đoán việc hình đã sẵn phép thường… Vậy nên đặc biệt sai đình thần tham khảo điển cũ của bản triều, luật lệ đời Hồng Đức, điều luật nước Đại Thanh, cùng những điều mới định gần đây, châm chước những điều thích hợp mà biên tập thành sách, trẫm thân hành xét định, phàm 22 quyển. Lại sai các đại thần tổng tài và khảo hiệu để khắc in, ban hành cho thiên hạ để làm lệnh điển đời đời. Từ nay xét xử ngục tụng, hết thảy y theo luật điều mới ban, không được trái vượt. Quan lại trong ngoài đều nên lưu tâm nghiên cứu. Dẫn dụng mà xử đoán, cần phải rõ ràng khiến cho hình được công bằng, không ai bị oan lạm, để báo đáp tấm lòng xử phạt thương xót việc hình của trẫm. Lại thấy điều lệ mới thi hành, nha môn trong ngoài chưa có thể xem kỹ hết mọi điều, chuẩn cho từ năm nay đến cuối tháng 12 năm Đinh sửu, quan xét hình có sơ suất nhầm lẫn thì không phải là có ý khép mở tội người thì về tội roi và trượng đều miễn nghị, về tội đồ trở lên thì chiếu lệ thất xuất thất nhập giảm thêm một bậc; từ năm Mậu Dần trở đi thì xử trị theo luật”.
5. Từ truyền thống pháp luật phong kiến đến Nhà nước pháp quyền hiện đại
Trải qua thời gian, pháp luật Việt Nam đã đi từ những quy định mang tính vương triều, hướng tới việc giữ nước và trị dân, đến hệ thống Hiến pháp, pháp luật hiện đại – nơi quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ngày 9 tháng 11 hằng năm được chọn là Ngày Pháp luật Việt Nam là dịp để toàn xã hội tôn vinh Hiến pháp và pháp luật, khẳng định vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước và đời sống công dân. Đây cũng là dịp để mỗi người dân nhìn lại chặng đường phát triển của nền pháp lý dân tộc – một hành trình dài khởi nguồn từ luật Hình thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (thời Lê) và Hoàng Việt Luật lệ (thời Nguyễn) là những bộ luật cổ tiêu biểu được xây dựng, ban hành và đã phát huy tác dụng trong xã hội nước ta từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX. Hiện nay, nếu biết khai thác và sử dụng, các bộ luật nói trên còn có nhiều giá trị đối với xã hội đương đại Việt Nam. Kỷ niệm Ngày Pháp luật Việt Nam, chúng ta càng thêm trân trọng giá trị của di sản pháp luật cổ truyền, đồng thời ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm công dân trong việc tôn trọng, tuân thủ và bảo vệ pháp luật – nền tảng vững chắc cho một Nhà nước pháp quyền Việt Nam dân chủ, công bằng và văn minh.
Cao Quang – Ánh Phượng
Tài liệu tham khảo:
1. Mộc bản triều Nguyễn – Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên – TTLTQGIV;
2. Mộc bản triều Nguyễn – Hoàng Việt luật lệ – TTLTQGIV.
[1] : Khâm tuất minh doãn: Kính cẩn, thương xót, sáng suốt, tin đúng.