Tết Trung thu là một trong những lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thường gọi là “Tết thiếu nhi”, “Tết trông trăng”. Đây là ngày tết mà mọi trẻ em đều háo hức mong chờ để được phá cỗ, xem múa lân, đón chị Hằng,… Đêm Trung thu luôn tràn ngập hạnh phúc, tiếng cười rộn vang của các em nhỏ trên khắp các đường làng của vùng nông thôn hay những phố nhỏ nơi thị thành. Vậy Trung thu dưới thời phong kiến ở Việt Nam có gì khác thời nay? Qua Di sản Mộc bản triều Nguyễn, cùng hiểu thêm về ngày tết Trung thu xưa ở nơi Hoàng cung.

Mô phỏng đêm hội trăng rằm thời xưa (Ảnh: AI)

Không rõ ngày tết Trung thu ở nước ta có tự bao giờ. Chỉ biết rằng, theo những thông tin được ghi chép trong Mộc bản Triều Nguyễn thì tết Trung thu ở Việt Nam đã được tổ chức từ rất lâu đời. Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 1, mặt khắc 2 ghi lại cảnh vua Trần Dụ Tông, 4 tuổi chẳng may bị té xuống nước khi đi thuyền chơi Hồ Tây vào đêm tết Trung thu. Điều này cho thấy rằng từ xưa vào dịp Tết Trung thu, cung đình đã tổ chức hoạt động mừng lễ hội. Năm Canh Thân (1500), vua Lê Hiến Tông có làm bài thơ ngự chế “Quan Giá đình Trung thu ngoạn nguyệt” (Đêm Trung thu ngắm trăng tại đình Quan Giá) cho các quan họa lại….

Hình 1: Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 14, mặt khắc 23 ghi việc vua Lê Hiến Tông làm bài thơ ngự chế “Quan Giá đình Trung thu ngoạn nguyệt” cho các quan họa lại

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Dưới triều Nguyễn, vào tháng 8, năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng đã ra chỉ Dụ cho lấy tết Trung thu là quốc lễ, giống như các tết chính khác của đất nước. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 158, mặt khắc 12,13 còn ghi như sau: “Định thêm thể lệ các tiết lễ hằng năm. Vua dụ Nội các rằng: “Nhà nước xét theo phép xưa, làm sáng điển lễ. Hằng năm có 5 kỳ tế hưởng ở nhà tôn miếu, cho đến các tết như Nguyên đán, Thanh minh, Đoan dương, Trừ tịch đều có lễ tiến cúng để tỏ thành kính. Lễ nghi và ý nghĩa đã là chu đáo. Lại nghĩ: những ngày tuần tiết như: Thượng nguyên, Hạ nguyên, Trung nguyên, Thất tịch, Trung thu, Trùng dương, Đông chí, người xưa cũng có cúng lễ, mà tục nước ta thật thà chất phác chưa cử hành được hết. Vậy sai bộ Lễ tham bác xưa nay, châm chước kiến nghị, tâu lên trẫm nghe. Đến khi lời bàn dâng lên thì vua chuẩn định: từ nay, phàm những tiết Đông chí, Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên đều làm cỗ bàn dâng cúng các miếu và điện Phụng Tiên, lễ nghi như lễ tiết Đoan dương (duy có tiết Thượng nguyên, gặp ngày đản ở điện Phụng Tiên thì những lễ phẩm cứ chiếu theo lệ, bày đặt như cũ, không phải làm thêm cỗ bàn). Còn những tiết Thất tịch, Trung thu và Trùng dương đều dùng hoa quả nước trà và của ngon vật lạ (ngày Đông chí, làm lễ 3 tuần rượu; các tiết khác làm lễ 1 tuần rượu). Còn những tiết Thượng nguyên và Trung thu, thì treo đèn suốt đêm để nêu bật ngày tết nhằm thời tiết đẹp”.

Hình 2: Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 158, mặt khắc 12, 13 ghi chép việc vua Minh ra chỉ Dụ cho lấy tết Trung thu làm tiết lễ

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Vào ngày này, trên khắp Kinh thành Huế đèn được thắp sáng suốt đêm. Theo lệ, các vua Nguyễn sẽ thiết đại triều vào ngày mùng 1 và 15 âm lịch hàng tháng. Tuy nhiên, vào dịp tết Trung thu, các quan văn từ tam phẩm và quan võ từ nhị phẩm trở lên đều được miễn triều yết, được phép ở dinh thự tắm gội và nghỉ ngơi ăn tết. Còn các quan chức có phẩm hàm thấp hơn thì vẫn phải túc trực bình thường: “Chuẩn định từ nay, phàm các ngày tết Tam nguyên và tết Trung thu (những ngày này đều gặp vào ngày rằm là ngày đặt phiên triều yết), các quan trong triều đều được miễn triều yết, cho phép được ở dinh thự tắm gội nghỉ ngơi ăn tết. Duy các quan văn từ tứ phẩm, võ từ tam phẩm trở xuống, vẫn phải túc trực như thường”.

Ngoài ra, các triều vua Nguyễn còn cho tổ chức nghi lễ ở các miếu điện rất chu đáo, trang nghiêm. Như vua Thiệu Trị cho định thêm lệ tiến lễ tết Trung thu ở điện Sùng Ân, nơi thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu. Vua Tự Đức vào tết Trung thu năm Canh Thân (1860), vua chuẩn định mâm cỗ Trung thu tại điện Hiếu Tư và điện Long An như sau: “Lễ Trung thu: 1 mâm hào soạn hạng nhất, 2 mâm ngọc soạn, 1 mâm trân tu”.

Và cũng trong tiết trời mát mẻ của ngày tết Trung thu, vua Thiệu Trị cũng đến chơi vườn Thường Mậu. Ngoài ra, còn ban thưởng cho các hoàng thân và quan viên đi hỗ giá: sa, đạo, nhung, trừu và tiền bạc có thứ bậc khác nhau.

Hình 3: Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ, quyển 33, mặt khắc 9 ghi về việc vua Thiệu Trị đến chơi vườn Thường Mậu nhân ngày tết Trung thu

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Có thể nói, qua một số tài liệu lưu trữ dẫn chứng trên, mặc dù chưa đầy đủ để tái hiện hết phong tục đón Tết Trung thu của các vua quan thời Phong kiến, nhưng ít nhiều cũng có thể hình dung được không khí ngày rằm tháng 8 trong cung cấm. Vào dịp lễ đặc biệt, các vua quan cũng cho thắp đèn, đi chơi, hoạ thơ và bái yết tổ tiên, gửi gắm ước vọng về một tương lai thái bình, thịnh vượng cho dân tộc.

Trải bao thăng trầm của lịch sử, tết Trung thu ở Việt Nam đã có nhiều sự  thay đổi nhưng vẫn luôn được giữ gìn và trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa truyền thống dân tộc. Ngày nay, tết Trung thu không chỉ là dịp đoàn viên mà còn là ngày hội đặc biệt dành riêng cho các em thiếu nhi, mang đến niềm vui, sự ấm áp và tràn đầy yêu thương./.

Cao Quang

Tài liệu tham khảo:

1. Hồ sơ H20, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

2. Hồ sơ H21, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

3. Hồ sơ H22, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

4. Hồ sơ H23, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

5. Hồ sơ H24, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;

6. Hồ sơ H48, Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.