Ngô Quyền là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông là người mở ra thời kỳ độc lập sau ngàn năm Bắc thuộc bằng chiến thắng oai hùng, hiển hách trên sông Bạch Đằng trước đại quân Nam Hán.
Viết về ông, Sử gia Lê Văn Hưu nhận xét: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới hợp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi”.
Ngô Sĩ Liên cảm khái: “Tiền Ngô Vương nổi lên không chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương, … !”
Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép về thân thế, sự nghiệp của Tiền Ngô Vương (Nguồn: TTLTQGIV)
1. Nhân vật và sự kiện
Ngô Quyền (898 – 944), quê ở xứ Đường Lâm, nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Cha ông là Ngô Mân, từng giữ chức Châu mục Đường Lâm. Từ nhỏ, Ngô Quyền đã sống trong truyền thống yêu nước của quê hương.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư, ngoại kỷ, quyển 5 chép: “Vua mưu cao đánh giỏi, làm nên công tái tạo, đứng đầu các vua. Vua họ Ngô, tên húy là Quyền, người Đường Lâm, đời đời là nhà quý tộc. Cha là Ngô Mân, làm chức Châu mục. Khi vua mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, tướng mạo vua khác thường, có ba nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Đến khi lớn lên, vua khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc”.
Đến lúc trưởng thành, Ngô Quyền rất giỏi võ nghệ. Năm 920, ông theo Dương Đình Nghệ; trong cuộc kháng chiến của Dương Đình Nghệ chống quân Nam Hán, Ngô Quyền chiến đấu rất quả cảm, trở thành vị tướng giỏi có nhiều công lao, ông được Dương Đình Nghệ tin yêu và gả con gái cho. Sau khi đánh đuổi được quân Nam Hán, Ngô Quyền được Dương Đình Nghệ phong cho làm Thứ sử, trấn giữ Ái Châu (Thanh Hóa). Trong những năm quản lĩnh vùng Ái Châu, bằng tài năng nhiệt huyết, ông đã đem lại yên vui cho dân trong hạt.
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị một viên tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết chết để đoạt chức. Hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn đã gây nên một làn sóng bất bình, căm giận sâu sắc trong mọi tầng lớp nhân dân. Là người có tài đức và ý chí, ngay sau khi chủ tướng Dương Đình Nghệ bị sát hại, Ngô Quyền liền kéo quân ra Bắc, tiến công thành Đại La, diệt trừ Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn vội cho người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán nhân cớ đó, cho quân xâm lược nước ta lần thứ hai.
Năm 938, vua Nam Hán sai con là Lưu Hoằng Tháo chỉ huy một đạo quân thủy sang xâm lược nước ta. Bản thân vua Nam Hán đóng quân ở Hải Môn (Quảng Tây – Trung Quốc), sẵn sàng tiếp ứng cho Hoằng Tháo. Ngô Quyền đã nhanh chóng tiến quân vào thành Đại La (Hà Nội), bắt giết chết Kiều Công Tiễn, đồng thời khẩn trương chuẩn bị chống quân Nam Hán xâm lược.
2. Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938
Tại sông Bạch Đằng, một kế hoạch chiến đấu mưu trí và chắc thắng đã được Ngô Quyền và các tướng lĩnh bàn định và thông qua.
Bấy giờ vào cuối năm 938. Trời rét, gió đông bắc tràn về, mưa dầm lê thê kéo dài hàng nửa tháng. Chính trong những ngày ấy, theo kế hoạch của Ngô Quyền, quân và dân ta lặn lội mưa rét, ngày đêm lên rừng đẵn hàng ngàn cây gỗ dài, đầu đẽo nhọn và bịt sắt, rồi đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng ở những nơi hiểm yếu, gần cửa biển, xây dựng thành một trận địa cọc ngầm.
Khi nước triều rút các hàng cọc mới phơi ra, còn khi nước lớn thì thuyền bè vẫn qua lại dễ dàng. Trận địa cọc được tiến hành rất gấp rút, theo dự kiến của Ngô Quyền, trận đánh sẽ diễn ra ở phía trong bãi cọc. Tướng Dương Tam Kha (con của Dương Đình Nghệ, em vợ của Ngô Quyền) chỉ huy đội quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu ngạn, mai phục sẵn, phối hợp với thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch và sẵn sàng diệt số quân địch chạy lên bờ.
Trận địa bố trí vừa xong thì binh thuyền Nam Hán từ Quảng Đông kéo sang. Cuộc chiến đấu đã diễn ra như sự trù liệu và dự tính của Ngô Quyền đã vạch ra.
Ngô Quyền cho một toán thuyền nhẹ ra đánh nhử quân Nam Hán vào cửa sông Bạch Đằng, lúc nước triều đang lên. Cả đoàn binh thuyền lớn của Hoằng Thao vừa vượt biển vào cửa sông Bạch Đằng đã hăm hở đốc quân đuổi theo, vượt qua bãi cọc ngầm mà không biết. Nước triều bắt đầu rút. Ngô Quyền hạ lệnh dốc toàn lực lượng đánh quật trở lại. Quân Nam Hán chống không nổi phải rút chạy ra biển.
Đúng lúc nước triều rút nhanh, bãi cọc dần dần nhô lên. Quân ta từ phía thượng lưu đánh mạnh xuống, quân mai phục hai bên bờ đánh tạt ngang. Quân Nam Hán rối loạn, thuyền xô vào bãi cọc nhọn, vỡ tan tành. Số còn lại vì thuyền to nặng, nên không sao thoát khỏi trận địa bãi cọc. Quân ta, với thuyền nhỏ, đã nhẹ nhàng luồn lách, xông vào đánh giáp lá cà rất quyết liệt. Quân địch bỏ thuyền nhảy xuống sông, phần bị giết, phần chết đuối, thiệt hại đến quá nửa. Hoằng Tháo cũng bị mất mạng trong đám tàn quân.
Vua Nam Hán, được tin bại trận trên sông Bạch Đằng, con trai là Hoằng Tháo bị chết, đã hốt hoảng, vội vã hạ lệnh thu quân về nước. Trận chiến Bạch Đằng diễn ra nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không kịp tiếp ứng cho con. Sử chép: “Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà rút lui”.
Chiến thắng Bạch Đằng thời Ngô Quyền là một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong điều kiện lực lượng ta – địch chênh lệch không nhiều, Ngô Quyền đã lợi dụng được cả thời tiết, địa hình có lợi cho ta, tạo nên thế mạnh giáng cho quân xâm lược vừa mới thò mặt tới một đòn trời giáng, giành thắng lợi quyết định bằng một trận mai phục thủy chiến trên sông.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là trận chung kết toàn thắng của dân tộc ta trên con đường đấu tranh Bắc thuộc, giành lại độc lập hoàn toàn.
Chiến công hiển hách đó đập tan mưu đồ xâm lược của Nam Hán, tạo cơ sở để Ngô Quyền phát triển chính quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương thành chính quyền độc lập, chấm dứt hoàn toàn thời Bắc thuộc kéo dài trên nghìn năm, tạo điều kiện tiến lên xây dựng một quốc gia độc lập hoàn toàn.
Sau chiến thắng Bạch Đằng (938), mưu đồ xâm lược của quân Nam Hán bị đè bẹp, năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, chọn Cổ Loa làm kinh đô nước Việt.
3. Tư liệu Mộc bản triều Nguyễn
Sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 5, mặt khắc 20,21 đã chép:
Ngô Vương tại vị được 6 năm, thọ 47 tuổi (898-944).
Vua mưu cao đánh giỏi, làm nên công tái tạo, đứng đầu các vua.
Vua họ Ngô, tên húy là Quyền, người Đường Lâm, đời đời là nhà quý tộc. Cha là Ngô Mân, làm chức Châu mục. Khi vua mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, tướng mạo vua khác thường, có ba nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Đến khi lớn lên, vua khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc. Lúc đầu, vua làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được Đình Nghệ gả con gái và cho quyền cai quản Ái Châu. Vua giết Kiều Công Tiễn, tự lập làm vương, đóng đô ở Loa Thành.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 5, mặt khắc 18-21 chép:
Tháng 9, mùa thu. Nha tướng của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền khởi binh, giết Kiều Công Tiễn. Chúa Nam Hán là Lưu Cung sai con là Hoằng Tháo sang cứu viện. Ngô Quyền đón đánh ở sông Bạch Đằng, quân Nam Hán bị thua, Hoằng Tháo bị chết đuối.
Ngô Quyền người ở xã Đường Lâm, thuộc dòng quý tộc đã lâu đời, cha là Ngô Mân, trước đây làm quan mục ở châu nhà. Khi Ngô Quyền mới sinh, có điềm sáng rực cả nhà, dung mạo đặc biệt khác thường, trên lưng có ba nốt ruồi đen. Thầy xem tướng lấy làm lạ, bảo rằng sau này có thể làm chúa một phương. Vì thế mới đặt tên là Quyền. Khi Ngô Quyền lớn lên, mặt mũi khôi ngô, mắt sáng như chớp, chân bước khoan thai như dáng hổ, có trí dũng, sức khoẻ cất nổi cái vạc, làm nha tướng của Diên Nghệ. Diên Nghệ gả con gái cho. Ngô Quyền coi giữ Ái Châu. Khi Công Tiễn giết Diên Nghệ, Ngô Quyền đem quân từ Ái Châu ra đánh, giết được Công Tiễn.
Theo sách Cương mục (Trung Quốc), Kiều Công Tiễn sai sứ đem của đút lót cho chúa Nam Hán để xin cứu viện. Chúa Nam Hán là Lưu Cung định nhân dịp loạn ấy sang lấy Giao Châu, nên cho con là Vạn vương Hoằng Tháo làm Giao vương, đem quân sang cứu Công Tiễn. Lưu Cung có hỏi Sùng Văn sứ là Tiêu Ích về sách lược; Tiêu Ích trả lời: “Hiện nay mưa dầm đã suốt mấy tuần, đường biển hiểm trở xa khơi. Ngô Quyền lại là người tài giỏi, chớ nên coi thường. Đại quân phải nên giữ gìn thận trọng, dùng nhiều người đưa đường rồi sau hãy tiến”. Lưu Cung không dùng kế ấy, sai Hoằng Tháo đem thuyền chiến kéo thẳng sang đánh Giao Châu. Khi ấy, Ngô Quyền đã giết được Công Tiễn. Ngô Quyền đem quân đón đánh. Đầu tiên, lấy các cọc gỗ đầu đẽo nhọn và bịt sắt trồng ngầm ở cửa biển, nhân lúc nước triều lên cho các thuyền nhẹ ra khiêu chiến, rồi giả cách thua chạy. Hoằng Tháo đuổi đánh, thình lình nước triều rút cạn, thuyền chiến mắc phải cọc bịt sắt, không trở về được. Quân Nam Hán thua to, Hoằng Tháo bị chết đuối.
Theo Ngũ đại sử, tướng cũ của Diên Nghệ là Ngô Quyền đánh Giao Châu, Công Tiễn cho người sang Nam Hán xin quân cứu viện. Lưu Cung phong Hoằng Tháo làm Giao vương, xuất quân tới sông Bạch Đằng để đánh Ngô Quyền. Lưu Cung đem quân đóng ở trấn Hải Môn. Ngô Quyền ra đón đánh, Hoằng Tháo bị thua, tử trận, Lưu Cung thu quân kéo về.
Lời bàn của Ngô (Thì) Sĩ: Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc khôi phục thống nhất đất nước. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào uy thanh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, không phải chỉ lừng lẫy ở thời bấy giờ mà thôi đâu?
Sông Bạch Đằng: Bắt đầu từ sông Lục Đầu thuộc địa hạt tỉnh Bắc Ninh, phân dòng chảy vào địa hạt tỉnh Hải Dương. Một chi theo Mỹ Giang, một chi theo Châu Cốc Sơn, hai chi hợp lại ở xã Đoan Lễ. Khúc sông hợp lại này gọi là sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng phía nam giáp giới huyện Thủy Đường (mặt khắc 20), tỉnh Hải Dương; phía bắc giáp giới huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Yên; chuyển về phía nam 29 dặm, đổ ra cửa biển Nam Triệu. Theo sách Địa lý chí của Nguyễn Trãi, sông Bạch Đằng có tên gọi nữa là sông Vân Cừ, rộng hơn 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến, thực là một nơi hiểm yếu về đường biển. Tiền Ngô Vương Ngô Quyền đánh bại Hoằng Tháo, Hưng Đạo Vương đời Trần chiến thắng quân Nguyên đều ở trên sông Bạch Đằng này.
Năm Kỷ Hợi (939) (Ngô vương Quyền, năm thứ nhất; nhà Tấn, năm Thiên Phúc thứ 4). Mùa xuân. Ngô Quyền tự xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa.
Lời tán tụng của Ngô (Thì) Sĩ: Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù cho chúa, đuổi quân ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia, đem lại nền chính thống, công nghiệp thực là vĩ đại.
Vua lập Dương thị làm hoàng hậu.
Dương hậu là con gái Diên Nghệ. Trước kia, Ngô Quyền làm nha tướng của Diên Nghệ, Diên Nghệ gả con gái cho. Nay lập Dương thị làm hoàng hậu.
Vua đặt trăm quan, dựng nghi lễ trong triều, định màu sắc của triều phục.
Năm Giáp Thìn (944) (Ngô vương năm thứ 6; Tấn, Tề vương, năm Khai Vận thứ nhất). Ngô vương Quyền mất.
Sách Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập, quyển 1, mặt khắc 15, 16 chép:
Sách Sử ký ngoại kỷ chép: Tiên chúa họ Ngô, tên Quyền, nguyên làm nha tướng cho quan Tiết độ sứ Giao châu là Dương Đình Nghệ. Lúc bấy giờ Tiên chúa quản trị đất Ái Châu.
Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết, Ngô Tiên Chúa mới cất quân đánh Công Tiễn. Kiều Công Tiễn đem quân đút lót, cầu cứu với chúa Nam Hán là Lưu Yểm. Lưu Yểm muốn nhân lúc hoan lạc, chiếm luôn nước ta, mới sai con là Hoằng Thao đem quân cứu giúp Kiều Công Tiễn. Lưu Yểm tự làm tướng đóng quân ở cửa biển, đánh tiếng đến đây để cứu Kiều Công Tiễn. Còn Hoằng Thao thì đem thuyền và quân lính từ sông Bạch Đằng tiến vào nước ta.
Gặp lúc Ngô Tiên Chúa đã giết Kiều Công Tiễn ở cửa biển rồi, Tiên chúa ngầm trồng dưới mặt nước những cây cọc lớn nhọn đầu bịt sắt, rồi sai người dùng thuyền nhẹ khiêu chiến và giả vờ làm thua trận bỏ chạy. Hoằng Thao quả quyết tiến binh thuyền.
Sau khi binh thuyền của Hoằng Thao đã lọt vào bên trong các hàng cọc rồi, Ngô Tiên Chúa nhân lúc nước thủy triều rút xuống, mới ra lệnh đánh. Thuyền của Hoằng Thao đều đụng vào cọc mà lật sấp, binh sĩ của Thao chết đuối hơn nửa số. Ngô Tiên Chúa thừa thắng đuổi theo và bắt giết được Hoằng Thao.
Bấy giờ Tiên Chúa mới xưng Vương.
Ngô Vương sắp đặt trăm quan, ban chế nghi lễ triều đình và quyết định phục sắc cho các quan văn, võ.
Ngô Vương tại vị được 6 tháng thì mất.
Trước khi lâm chung, Ngài di mệnh cậy anh vợ là Dương Tam Kha giúp đỡ cho con mình, Tam Kha mới nhân cơ hội ấy cướp lấy ngôi Vương.
Thơ vịnh Ngô Tiên Chúa:
Áo nhung tẩy sạch Bạch Đằng ba
Nam Bắc phân cương tạm gác qua
Sắp đặt sáu năm bao nghị lực
Uổng đem thành nghiệp ủy Tam Kha.
Phạm Yến
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ sơ H60/5, Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Mộc bản triều Nguyễn.
2. Hồ sơ 97/1, Mộc bản sách Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập, Mộc bản triều Nguyễn.
3. Hồ sơ H31/6, Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, Mộc bản triều Nguyễn.