Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo thiêng liêng, là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Từ bao đời nay, cha ông ta đã khai phá, quản lý và bảo vệ các quần đảo này bằng biết bao mồ hôi, công sức và cả xương máu. Những bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý vững chắc đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ rất sớm, được ghi nhận qua nhiều tài liệu chính thống của nhà nước phong kiến Việt Nam cũng như các tư liệu quốc tế.

Phần I. Hoàng Sa – Trường Sa cương vực tự bao đời

Tư liệu Mộc bản triều Nguyễn khắc về chủ quyền của Đại Việt (Việt Nam) về quần đảo Hoàng Sa

Những dấu mốc lịch sử quan trọng liên quan đến quá trình người Việt đi khai phá, xác lập và thực thi chủ quyền tại Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thời kỳ phong kiến đến thời Pháp thuộc. Đặc biệt những tài liệu thuộc khối Châu bản, Mộc bản triều Nguyễn – Di sản tư liệu thế giới đã ghi chép lại những dấu mốc lịch sử quan trọng về quá trình thăm dò, khai phá, xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, qua đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.

Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 22, mặt khắc 29, 30 đã chép việc Vua Lê Thánh Tông từng nói với các quan phụ trách biên cương để thấy được sự kiên quyết về chủ quyền trong vấn đề ngoại giao của Việt Nam từ xưa tới nay. Vua nói: “Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được? Phải kiên quyết tranh luận, không để cho họ lấn dần. Nếu họ không theo, còn có thể sai sứ sang tận triều đình của họ, biện bạch rõ lẽ phải trái. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất đai của Thái Tổ để lại để làm mồi cho giặc, người ấy sẽ bị trừng trị nặng”. Câu nói này trở thành kim chỉ nam trong con đường đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta trong hàng ngàn năm qua, được ghi lại trong sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã cho thấy quan điểm nhất quán trong con đường ngoại giao của Việt Nam, luôn kiên trì ngoại giao hòa bình nhưng chủ quyền lãnh thổ là thiêng liêng, là bất khả xâm phạm.

Vị trí của đảo Hoàng Sa, theo Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí ghi chép như sau: Đảo Hoàng Sa nằm ở phía Đông đảo Lý (cù lao Ré), trong đảo có Bãi Cát Vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Trường Sa. Và từ rất sớm, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã tổ chức những hoạt động thăm dò khai thác tại các đảo này thông qua đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.

Đến vương Triều Nguyễn, việc khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa càng rõ ràng, mạnh mẽ và được thể hiện ở tầm cao hơn trong các bộ chính sử. Không chỉ đơn thuần là sai người đi khai thác sản vật mà còn đi đo đạc thủy trình, vẽ thành bản đồ, cắm mốc chủ quyền và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đã ghi về việc vua Gia Long cử Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự trông coi của biển Sa Kỳ, chiêu mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa vào năm 1803. Năm 1816, Vua sai thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò, đo đạc thủy trình, xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này. Việc vua Minh Mạng đã cử người đi ra trồng cây trên các đảo, dựng miếu thờ thần tại Hoàng Sa đã cho thấy từ rất sớm đã có hoạt động dân sự tại hai quần đảo này đã diễn ra thường xuyên, liên tục. Đặc biệt, triều Nguyễn đã có nhiều hoạt động cứu hộ trên biển như cứu hộ tàu của người Anh, Pháp bị mắc cạn ở trong quần đảo Hoàng Sa, chu cấp gạo và tiền để cho họ trở về quê hương.

Những tư liệu Châu bản Triều Nguyễn cũng ghi chép nhiều thông tin liên quan đến vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc đi nghĩa vụ ở Hoàng Sa đều được triều đình thưởng phạt một cách nghiêm minh: Ngày 13 tháng 07 năm 1837 triều Vua Minh Mạng ghi chép việc xử phạt các phái viên phái đi công vụ ở Hoàng Sa đo vẽ bản đồ nhưng không hoàn thành nhiệm vụ. Hay bản phụng dụ của Hà Duy Phiên, Lý Văn Phức về việc ban thưởng cho các binh dân được sai phái ra Hoàng Sa làm công vụ vì đã xông pha đường biển gian lao. Sau này đến triều Vua Bảo Đại đã khen thưởng cho những người Pháp có công trong việc đảm bảo thông tin liên lạc tại Hoàng Sa. Điều này chứng tỏ vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam dù đang lâm vào thế yếu vẫn tìm mọi cách để khẳng định 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong hải giới của Việt Nam.

Hệ thống bản đồ do các nước phương tây vẽ về Châu Á và khu vực biển Đông, xuất bản từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX, trong đó thể hiện Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với tên gọi quốc tế là Pracel hay Paracels nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc lãnh thổ của nước An Nam. Đặc biệt tờ bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ do giáo sĩ Taber vẽ năm 1838 đang lưu giữ tại Thư viện quốc gia Pháp, ấn hành lần đầu tại Ấn Độ. Tên bản đồ được thể hiện bằng 3 ngôn ngữ: Hán, Việt và La-tinh. Bản đồ ghi chép đầy đủ các địa danh của nước ta, ở dưới vĩ tuyến 17 và trên vĩ tuyến 16 có một quần đảo và vị Giám mục Taber đã ghi chú là Paracel seu Cat Vang có nghĩa là Paracel hay Bãi Cát Vàng bằng tiếng La tinh. Trong một tài liệu năm 1837, Taber khẳng định lại dòng chữ này: “Paracel hay Pracel mà người Nam kỳ gọi là Cồn Vàng hay là Cát Vàng và nơi đây năm 1816 vua Gia Long đã cắm ngọn cờ và tuyên bố chủ quyền thuộc về An Nam và không có nước nào tranh chấp cả”, qua đó đã khẳng định Paracel thuộc An Nam.

Sau khi triều đình nhà Nguyễn kí hòa ước Giáp Thân năm 1884 hay còn gọi là Hòa ước Patennotre, thừa nhận và chấp nhận nền bảo hộ của nước Pháp thì nước Pháp đã thay mặt nước An Nam trong mọi quan hệ đối ngoại. Chính quyền thuộc địa Pháp đã tiến hành các hoạt động đại diện cho nhà nước Việt Nam trong việc tiếp tục bảo vệ, quản lý và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Hoạt động này được thể hiện qua việc người Pháp cho xây dựng trạm khí tượng (1927), dựng bia chủ quyền (1938), thành lập, sáp nhập các đơn vị hành chính và cho các công ty thăm dò, khai thác khoáng sản tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngoài ra hệ thống bản đồ các đảo và đảo đá ngầm phía Đông Nam Kỳ do Nha Thủy Văn Bộ Hải quân Pháp xuất bản tại Paris năm 1938. Trong đó một phần quần đảo Trường Sa: Đảo Thị Tứ, Loại Ta, Đảo Song Tử Đông, đảo Song Tử Tây, đảo Tempête, đảo Ba Bình được thể hiện trên bản đồ.

Ngày 8-3-1925, Toàn quyền Đông Dương ra tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Pháp. Tháng 03-1929, Thống đốc Nam Kỳ nhận được yêu cầu thăm dò khoáng sản trên quần đảo Trường Sa của Công ty Phosphates Bắc Kỳ, và sau đó các hoạt động khai thác, vận chuyển phosphates được diễn ra thường xuyên. Ngày 21-12-1933, Thống đốc Nam Kỳ Krautheimer ký Nghị định số 4762, sáp nhập các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (Spratley) nằm trên Biển Đông vào tỉnh Bà Rịa.

Trong giai đoạn này, Chính phủ Nam triều tuy chỉ tồn tại trên danh nghĩa, song vẫn chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 29 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 13 (30-3-1938), Hoàng đế Bảo Đại ký Dụ cho “Tháp nhập các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên; về phương diện hành chính, các cù lao ấy thuộc dưới quyền  quan Thủ hiến tỉnh ấy”.

Các công văn về việc thăng thưởng cho các viên chức bản xứ làm việc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1939, điều này chứng tỏ chính phủ Pháp hết sức quan tâm đến quần đảo Hoàng Sa.

Tiếp theo đó, ngày 5-5-1939, Toàn quyền Đông Dương J. Brévie ký Nghị định số 3282, sửa đổi Nghị định trước đó và thành lập hai sở đại lý trên quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên là Đại lý hành chính Nguyệt Thiềm và phụ cận, Đại lý hành chính An Vĩnh và phụ cận.

Đến đầu thế kỷ XX, ngoài việc thiết lập trạm hải đăng Hoàng Sa, người Pháp liền nghĩ ngay đến việc thiết lập tại đây một đài khí tượng và hệ thống vô tuyến đi kèm, nhằm thông báo kịp thời yếu tố thời tiết và an ninh hàng hải. Đây là Công văn số 315 ngày 21 tháng 5 năm 1947 của Tư lệnh các Lực lượng Pháp tại Viễn Đông về việc lắp đặt trạm quan sát khí tượng tại đảo Hoàng Sa.

Cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam dân chủ Cộng hòa sau khi giành được độc lập từ năm 1945, không còn ràng buộc vào Hiệp định Patenotre (1884) với Pháp nhưng phía Pháp cho rằng, theo Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn còn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về Pháp, nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong việc chống lại việc xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là Công lệnh số 686/3  ngày 16 tháng 7 năm 1947 của Tư lệnh Quân đội Pháp tại Trung Việt về việc tăng thêm một trung đội ra quần đảo Hoàng Sa.

Tiếp đó, với Hiệp định ngày 8/3/1949, Pháp gây dựng được chính quyền thân Pháp (Quốc gia Việt Nam) do Bảo Đại đứng đầu, tiếp quản quần đảo Hoàng Sa. Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao quần đảo Hoàng Sa cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam quản lý. Đây là các công văn về việc Chính phủ Pháp thực hiện từng bước chuyển giao quần đảo Hoàng Sa cho Chính phủ Bảo Đại quản lý vào năm 1950.

Sau hội nghị San Francisco (tháng 9-1951), ngày 22-10-1951, Thủ hiến Trung Việt, Trần Văn Lý đã ký Công văn mật số 1403-VP/PC/M gửi Thủ tướng chính phủ Quốc gia Việt Nam đề nghị sáp nhập đảo Hoàng Sa (Iles Paracel) và Tây Sa vào thị xã Đà Nẵng. Tuy nhiên, đề nghị này đương thời chưa được Chính phủ quốc gia Việt Nam giải quyết, trong khoảng thời gian từ 1950 đến năm 1961, quần đảo Hoàng Sa vẫn thuộc tỉnh Thừa Thiên.

Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp chưa bao giờ tuyên bố phủ nhận chủ quyền của Vương quốc An Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà nước Pháp có trách nhiệm bảo hộ. Mặc dù trong giai đoạn này bắt đầu có một số nước lên tiếng đòi hỏi chủ quyền vô lý ở một số đảo, nhưng tất cả đều bị chính quyền Pháp kiên quyết phản đối. Những tư liệu lịch sử nói trên cho thấy, người Pháp cũng như người Việt trong thời điểm này chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho đến khi thua trận rút khỏi Đông Dương, Chính phủ Pháp cũng đã bàn giao quyền quản lý vùng biển này lại cho một chính phủ tuy do Pháp dựng lên nhưng cũng là của người Việt Nam.

Phần II. Quá trình thực thi và bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1954 đến nay

Năm 1954, sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, công nhận nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tuy nhiên, một điều khoản quy định rằng: Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam – Bắc, lấy vỹ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời. Giới tuyến này được kéo dài bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi. Hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm ở dưới vĩ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền ở miền Nam – Việt Nam, lúc đầu là Chính phủ Quốc gia Việt Nam, sau đó là Chính quyền ngụy Sài Gòn (Ngụy quân ngụy quyền).

Từ năm 1954 đến năm 1975, Chính quyền ngụy Sài Gòn đã ban hành nhiều sắc lệnh, nghị định về Hoàng Sa, đồng thời tiến hành hàng loạt những hoạt động kinh tế, quân sự tại đây như: xây dựng trạm vô tuyến, nghiên cứu hải dương học, cho lực lượng Bảo An ra tiếp quản Hoàng Sa thay lực lượng Thủy quân lục chiến, cử lực lượng đồn trú tại các đảo hay những văn bản về chia tách, sát nhập về mặt hành chính của Chính quyền ngụy Sài Gòn (Ngụy quân ngụy quyền) cho thấy tính liên tục của quá trình khai thác, bảo vệ của Chính quyền ngụy Sài Gòn (Ngụy quân ngụy quyền) đối với các quần đảo của Việt Nam, trong đó có Hoàng Sa.

Về bảo vệ Hoàng Sa, tại Công văn số 231-VP/QP/M ngày 29-01-1957 của Bộ trưởng, Phụ tá quốc phòng gửi ông Bộ trưởng tại phủ Tổng thống về việc canh phòng đảo Hoàng Sa: “Kể từ ngày Việt Nam thu hồi lại chủ quyền trên đảo Hoàng Sa, đảo này vẫn do một đại đội thuộc Trung đoàn 162 đồn trú tại Quảng Nam đảm nhiệm việc canh phòng. Hiện nay, tại Trung phần, việc tổ chức lại địa hạt quân sự đem lại một vài sự thay đổi trong kế hoạch đóng quân của Quân đội Cộng hòa, Trung đoàn 162 phải rút đi làm nhiệm vụ khác. Vậy tôi trân trọng yêu cầu quý Bộ, nếu không gặp trở ngại, chỉ thị lấy bảo an đoàn thay thế quân đội phụ trách canh phòng đảo Hoàng Sa, ngõ hầu có thể thực hiện nhanh chóng.

Việc Chính quyền ngụy Sài Gòn ngăn chặn dân binh Trung Quốc âm mưu xâm nhập trái phép quần đảo Hoàng Sa năm 1959. Những “ngư phủ” có vũ trang của Trung Quốc đã tiếp tục lén lút đổ bộ lên các đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa nhưng đã bị Hải quân Việt Nam cộng hòa bắt giữ (81 người) và đưa về cảng Đà Nẵng để xử lý, rồi trao trả lại cho phía Trung Quốc. Cùng với việc đưa “ngư phủ” lén lút xâm chiếm, đổ bộ lên các đảo Trung Quốc còn đẩy mạnh đưa tàu đánh cá, tàu thăm dò dầu khí tiến sâu vào vùng lãnh hải của Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa, nhất là việc đẩy mạnh việc xây dựng các cơ sở hạ tầng trên đảo Phú Lâm – nơi mà Trung Quốc vừa chiếm đóng bất hợp pháp năm 1956. Nhận thấy mưu đồ của Trung Quốc để xâm phạm chủ quyền, Chính quyền ngụy Sài Gòn đã không ngừng gia tăng sự bảo vệ, kiểm soát đảo và vùng nước phụ cận, đồng thời hết sức lên án hành động leo thang của Trung Quốc. Như việc biệt phái trung đội ra chiếm giữ đảo Ducan hay phái Bảo an ra đóng tại quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 22 tháng 11 năm 1959, lực lượng Bảo An chính thức thay thế Thủy quân lục chiến tại Hoàng Sa, Bộ quốc phòng đã cho tàu chiến chở 43 bảo an viên khởi hành từ Đà Nẵng ra thay thế 43 quân nhân thủy quân lục chiến tại quần đảo Hoàng Sa.

Sau khi tiếp quản Hoàng Sa từ tay thực dân Pháp, chính quyền Ngô Đình Diệm đã có nhiều chính sách chủ trương để khai thác, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa, nhất là chủ trương thành lập đơn vị hành chính xã Định Hải. Đây là sắc lệnh số 174-NV ngày 13/7/1961 do tổng thống Ngô Đình Diệm ký theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ nội vụ về việc thành lập xã Định Hải bao gồm trọn quần đảo Hoàng Sa Hải sau là xã Hòa Long thuộc quận Hòa Vang. Điều đáng nói ở đây là, việc thành lập đơn vị hành chính xa Định Hải đã không gặp bất kỳ một sự phản đối của một quốc gia nào lúc bấy giờ.

Bản đồ Phước Tuy do Nha Địa Dư quốc gia thiết lập và ấn hành năm 1971, trên bản đồ có quần đảo Trường Sa.

Tại các diễn đàn quốc tế về lãnh hải, lãnh thổ, các hiệp ước song phương, đa phương, Bộ ngoại giao và Chính quyền ngụy Sài Gòn (Ngụy quân ngụy quyền) đã tranh thủ tối đa để khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của mình tại Hoàng Sa. Ngày 15/7/1971 Thông tấn xã về thông cáo của Chính quyền ngụy Sài Gòn khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Năm 1974, lợi dụng tình hình ở Việt Nam có nhiều thay đổi, ngày 11/01/1974, Trung Quốc tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của mình. Đến ngày 19/01/1974, Trung Quốc tấn công lực lượng Hải quân của Chính quyền ngụy Sài Gòn đang làm nhiệm vụ tại Hoàng Sa. Ngay lập tức, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Chính quyền ngụy Sài Gòn (Ngụy quân ngụy quyền) đã tuyên bố Trung Quốc vi phạm chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền ngụy Sài Gòn đã phát đi nhiều thông cáo lên án hành động dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc, khẩn thiết yêu cầu Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế can thiệp.

Bên cạnh đó, Chính quyền ngụy Sài Gòn đã ra lệnh cho sưu tầm, thu thập tài liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Đối với nhân dân Việt Nam, dù ở miền Nam hay miền Bắc đều coi Hoàng Sa, Trường Sa là một phần máu thịt, không thể chia cắt của Tổ quốc Việt Nam. Bởi vậy, khi Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa năm 1974, nhân dân đã xuống đường biểu tình phản đối hành động phi pháp của Trung Quốc. Đặc biệt nhân dân thị xã Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ đã biểu thị mạnh mẽ thái độ phản đối hành động đưa quân chiếm đóng Hoàng Sa của Trung Quốc.

Dư luận thế giới lúc đó cũng có nhiều quốc gia lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm một phần đất của một quốc gia, điều này được thể hiện qua điện, thư của các nước trả lời thư của Chính quyền ngụy Sài Gòn.

Năm 1975, cùng với việc triển khai các phương án tiến công trên đất liền để thống nhất đất nước, kế hoạch thu hồi đảo Trường Sa cũng đã được Đảng và Nhà nước ta vạch ra. Hải quân Nhân dân Việt Nam đã triển khai lực lượng quản lý và bảo vệ tất cả các đảo trên quần đảo Trường Sa có quân đội ngụy Sài Gòn đóng giữ. Đặc biệt năm 1982, căn cứ vào Bộ luật biển năm 1982 của Liên hiệp quốc, HĐBT nước CHXHCNVN ra Nghị định về việc thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Đây là một khẳng định có tính pháp lý quyền quản lý hành chính của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm giữ.

Năm 1988, Trung Quốc tiếp tục tham vọng độc chiếm biển Đông bằng việc đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa, trong đó có nhóm đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao vào ngày 14/3/1988. Và trong trận chiến không cân sức ấy, 64 chiến sỹ trên tàu HQ 604 đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng biển khơi. Nhắc tới sự kiện này, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã từng viết: “Khi hi sinh ở đảo đá Gạc Ma; Họ đã lấy ngực mình làm lá chắn; Để một lần Tổ quốc được sinh ra; Máu của họ thấm vào lòng biển cả; Cờ Tổ quốc phất lên trong mưa đạn ; Phút cuối cùng đảo đá hóa biên cương; Họ đã lấy thân mình làm cột mốc; Chặn quân thù trên biển đảo quê hương…”.

Trước những hành động của Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam đã có những phản đối quyết liệt hành động của Trung Quốc và yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng con đường hoà bình đối thoại. (Bài báo đăng trên báo Nhân dân, Quân đội nhân dân).

Trong bài phát biểu của Đại tướng Lê Đức Anh trong lễ kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Quân chủng Hải quân Việt Nam tại Trường Sa năm 1988, Đại tướng đã nhấn mạnh: Chúng ta sẽ nhớ mãi không bao giờ quên tình hữu nghị sâu nặng giữa nhân dân hai nước Việt – Trung, nhưng chúng ta cũng kiên quyết bảo vệ nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước chúng ta… đã cho thấy rõ chủ trương con đường ngoại giao của Việt Nam.

Quá trình tiếp quản các đảo trên quần đảo Trường Sa của quân đội nhân dân Việt Nam sau ngày giải phóng, các hoạt động tuần tra, huấn luyện và bảo vệ đảo trên quần đảo Trường Sa cũng như các văn bản thể hiện lập trường của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa.

Mặc dù hiện nay quần đảo Hoàng Sa và một số đảo của quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép và thay đổi hiện trạng nhưng vốn là một dân tộc yêu hòa bình Việt Nam luôn muốn cùng các nước láng giềng giải quyết vấn đề biên giới nhất là biên giới trên biển bằng con đường thương lượng và hoà bình. Vậy nên cuộc đấu tranh của nhân dân ta vì toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc là một cuộc đấu tranh vô cùng cam go phức tạp. Giữ toàn vẹn lãnh thổ cần cương quyết nhưng mối quan hệ quốc tế buộc chúng ta phải khôn khéo tránh bị khiêu khích. Chúng ta phải làm sao cho công lý và hoà bình cùng được thực hiện là một điều không hề đơn giản.

Những tài liệu, tư liệu, hình ảnh, bản đồ được lưu trữ đã khẳng định một sự thật lịch sử: Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Sự thật đó không chỉ được ghi trong sử sách của dân tộc từ nhiều thế kỷ qua mà cả thế giới đã công nhận từ mấy trăm năm nay. Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo thường xuyên, liên tục và hòa bình, không gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào.

Trải qua bao thế kỷ, Hoàng Sa vẫn mãi là phần máu thịt của Tổ quốc. Chủ quyền ấy được viết nên bằng mồ hôi, công sức và cả xương máu của biết bao thế hệ. Mỗi người dân Việt Nam hôm nay có bổn phận giữ gìn, bảo vệ và khẳng định chân lý bất biến: Hoàng Sa là của Việt Nam!

Yến Phượng

Tài liệu tham khảo :

1. Bản thuyết minh trong chuỗi các hoạt động trưng bày, triển lãm chủ đề « Hoàng Sa, Trường Sa – Biển đảo thiêng liêng » về công bố, giới thiệu tài liệu lưu trữ nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước.