VIỆC CẤM CHỈ THẦY CÚNG, ĐỒNG CỐT

VÀ TÀ THUẬT ĐƯỢC KHẮC TRONG MỘC BẢN

 

Mê tín dị đoan được xem là mối tệ lớn từ xưa đến nay. Nó gây mê hoặc, lừa dối lòng dân. Những người cả tin mù quáng thì thiệt hại của cải, còn những kẻ bày ra trò cúng bái, bùa chú thì được lợi muôn phần. Để ngăn cấm những tà thuật đó, triều Nguyễn đã đưa ra nhiều luật định xử phạt, nghiêm cấm, trừ bỏ yêu tà sằng bậy.

Các hình thức mà thầy cúng, đồng cốt thường sử dụng là giả làm tờ thần giáng xuống, vẻ bùa đọc chú vào bát nước, hầu giá lên đồng, tự xưng là Đoan Công, Thái Bảo hay xưng càn là Phật Di Lặc… Ngoài ra chúng còn chứa giấu tượng vẽ, đốt hương tập họp mọi người, đêm đến họp sáng lại tan đi. Chúng bịa ra kinh chú, tà thuật, truyền pháp thuật cho bè lũ, góp tiền với nhau, hết thảy các thuật về tà đạo, dị đoan, làm mê hoặc nhân dân và gọi là thiện hữu, mưu cầu bố thí từ 10 người trở lên. Các thầy cúng còn nói chuyện luyện thuốc tiên, ra vào nhà quan trong kinh, ngoài tỉnh, hoặc tự tiện vào hoàng thành, nhờ cậy thế lực làm bậy, mưu cầu được tiến dụng.

Hình phạt mà triều Nguyễn dành cho chúng là kẻ thủ phạm phải tội giảo (giam hậu), kẻ tòng phạm đều phải phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm. Nếu là quân, dân đóng giả thần tượng, gõ thanh la, đánh trống, đón thần mở hội, phải phạt 100 trượng, chỉ bắt tội kẻ đứng đầu thôi. Lý trưởng biết không tố cáo, phải phạt đánh 40 roi.

Không chỉ xử phạt thầy cúng và những kẻ dùng tà thuật, mà quân, dân, người đứng đầu coi giữ chùa, quán, không biết xét lai lịch mà dung túng cho ở, cạo đầu cho mặc áo nhà chùa, 10 người trở lên, đều bị tội phát ra sung làm quân ở biên giới gần. Nếu dung túng cho ở dưới 10 người, tiến cử hay xóm giềng biết mà không cáo giác; các quan, quân coi giữ các cửa thành nhà vua, không chịu canh giữ lùng bắt, đều chiểu luật “vi chế” trị tội. Lương dân yên nghiệp, niệm kinh cầu phúc, tuyệt nhiên không học tập tà giáo, truyền pháp thuật cho bọn góp tiền với nhau làm mê hoặc dân chúng thì không bắt tội.

Bản dập mộc bản sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 186, mặt khắc 10: cấm chỉ thầy cúng, đồng cốt và tà thuật

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

 

Kẻ đem tà giáo mê hoặc dân chúng, chiểu luật trị tội không kể, nếu quan địa phương không nghiêm cấm, mà chức Giám thành sứ ở Kinh, các quan doanh, trấn bên ngoài hùa theo bênh vực, che giấu, không đưa ra tham hặc thì cùng với quan địa phương đều bị giao cho bộ bàn xét trị tội. Nếu người khác tố cáo thì các can phạm bị truy lấy tất cả lấy 20 lạng bạc để làm tiền thưởng cho người cáo giác. Nếu người nào có trách nhiệm phải bắt mà bắt được thì truy đòi các can phạm ấy lấy 10 lạng bạc làm tiền thưởng.

Khi triều Nguyễn mới dựng nước đã cấm người làm nghề phù thủy, làm đồng cốt, kẻ nào can phạm, làm phù thủy thì phạt xuy 100 roi, bắt đi giã gạo 6 tháng, đàn bà làm đồng cốt phạt xuy 100 roi, bắt đi giã gạo 6 tháng. Lại bãi các pháp lục, đạo sĩ sung bổ vào 2 ty Xá sai và Tướng thần lại.

Năm Gia Long thứ 3 (1804), vua ban dụ rằng: Khai hóa cho dân, làm nên tục tốt là việc đầu tiên của vương chính. Sau này giáo hóa bỏ nát, chính sách suy kém, trong các làng không có phong tục tốt, theo nhau lâu ngày, đắm đuối càng quá lắm. Phàm việc thờ phụng Thần, Phật, phần nhiều có vẻ quá mức không có lễ pháp; kẻ hào mục nhờ đó để đục khoét, dân cùng khổ phải lưu tán là do ở đó. Ta nay châm chước, sửa lại những thái quá cho trinh bình, làm định lệ chốn hương thôn, muốn bỏ hết mối tệ, cùng noi đến đạo cả vậy.

Từ nay trở đi, phàm việc thờ Phật, chùa, quán đổ nát, chỉ có tu bổ lại, còn làm chùa mới và đúc chuông tô tượng, lập đàn chay, hội chùa nhất thiết cắt hết.

Lại như những thuật cầu đảo, sám hối, giải ách, đều là vô ích cả. Đời xưa, kẻ đồng cốt, bói toán khinh nhờn thần thánh, họ Cao Tân (họ của vua Đế Cốc ngày xưa) chỉ cúng tế vị thần chính đáng, bọn tà đạo làm mê hoặc dân chúng, chế độ của Vương giả giết đi, đều là trừ khử sự mê hoặc, bỏ thuyết gian tà, để cho tục dân hết thảy theo về chính đạo. Như Tây Môn Báo (người nước ngụy thời Chiến Quốc) ném người đàn bà đồng cốt xuống sông, Địch Nhân Kiệt phá bỏ đền dâm thần, đều có định kiến cả.

Cái tục tin theo quỷ thần, mê muội đã quá, hơi một tí cũng mời thầy vẽ bùa, đọc chú, nịnh hầu kẻ đồng cốt. Kẻ có tà thuật đều giả trá, lừa dối, làm cho người nghe sinh biến rối loạn trong lòng; vẽ bùa, viết khoán, nhờ pháp thuật để sinh nhai; chuộc mạng, chiêu hồn, lấy con bệnh làm của báu. Thậm chí có kẻ phụ đồng ấp bóng, bịa ra lời nói của thần, kiêng ăn cấm thuốc, kẻ đau ốm không thể cứu lại được. Lại có những thuật làm người bằng giấy, làm ngựa bằng cỏ, ném gạch đá vòa nhà, đốt cháy nhà cửa, cùng những bùa thuốc làm mê hoặc; đã lấy pháp thuật để quấy nhiễu người lại đến tận nhà để xin chửa, lừa dối trăm cách, thực là mối hại lớn của nhân dân. Từ nay về sau, dân gian người nào có bệnh tật, chỉ được mời thầy chửa thuốc, không được nghe nhảm những việc yêu tà, cầu cúng gàn dở, thầy phù thủy, kẻ đồng cốt, không được thờ phụng đèn hương để trừ tà, chửa bệnh cho người. Nếu còn quan giữ thói cũ, tất phải trị tội nặng.

Nhờ những chính sách răn cấm nghiêm ngặt của vua Gia Long mà có lẽ những hủ tục mê tín được hạn chế, người dân lo sợ không dám cầu cạnh vào yêu thuật. Những kẻ lợi dụng lòng tin mù quáng cũng không có cơ hội để làm ăn bất chính. Cấm chỉ thầy cúng, đồng cốt và tà thuật thật là chính sách được dân ủng hộ./.

Tài liệu tham khảo:

1.    Hồ sơ H48/186 Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

2.    Hồ sơ H21/24 Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

3.    Bản dịch sách Đại Nam thực lục, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nxb Giáo dục (2004).

4.    Bản dịch sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa (2005).

Nhật Phương