CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VỀ QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

NHỮNG CỨ LIỆU TRONG CHÍNH SỬ TRIỀU NGUYỄN

 

Uông Thái Biểu – Khắc Niên

Báo Lâm Đồng cuối tuần ngày 17/9/2010

 

Hoàng Sa (và Trường Sa), hai quần đảo thấm máu cha ông đó luôn thể hiện trong tâm trí của mỗi người Việt Nam. Mấy trăm năm trước, những con tàu thuộc hải đội Hoàng Sa của chúa Nguyễn vượt sóng to gió cả hướng ra biển Đông để khai thác sản vật và mở rộng bờ cõi. Đến năm 1816, thủy quân của vua Gia Long đã kiểm soát toàn bộ biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Hoạt động của thủy quân Gia Long và các vua triều Nguyễn liên tục sau đó là cột mốc quan trọng xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này đã được minh chứng bằng lịch sử Việt Nam. Qua bài viết này, chúng tôi xin dẫn lại một số sử liệu liên quan đến nội dung này đã được chính sử triều Nguyễn ghi chép.

Trong suốt triều đại, từ thời các chúa Nguyễn đến các triều vua, nhà Nguyễn đã thấy được tầm quan trọng của các quần đảo và đảo trên biển đối với việc bảo vệ chủ quyền của đất nước. Đó là tầm nhìn xa trông rộng trong việc lập nên phên dậu bền vững cho con cháu muôn đời. Từ thời các chúa Nguyễn đã cho lập hải đội Hoàng Sa, hải đội này ngoài việc bảo vệ các quần đảo còn chịu trách nhiệm khai thác những sản vật quý trên đảo về nộp cho triều đình. Qua khai thác nguồn tài liệu mộc bản (hiện lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV – Tp Đà Lạt) và châu bản triều Nguyễn, chúng tôi đã tìm được rất nhiều tư liệu nói về quần đảo Hoàng Sa, trong đó chính sử triều Nguyễn ghi rất rõ ràng những việc làm của triều Nguyễn trong việc khẳng định chủ quyền quốc gia về quần đảo. Đây là những nguồn tư liệu có tính chính xác cao, là những căn cứ xác đáng để khẳng định chủ quyền của nước ta từ thời nhà Nguyễn đối với quần đảo này.

Mộc bản triều Nguyễn, sách Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 10 thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, có chép: “Mùa thu, tháng 7, dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho rồi đưa về. Chúa sai viết thư cảm ơn. Ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là “Vạn lý Trường Sa”. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba… Buổi quốc sơ khai đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào. Hàng năm, đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ 3 đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn để lượm hóa vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”.

Mộc bản sách Đại Nam thực lục tiền biên, quyển 10, mặt khắc 24:  Mùa thu, tháng 7, dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa.

Mộc bản triều Nguyễn, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 104 năm Minh Mạng thứ 14 (1833), ghi lại rằng: “Vua bảo bộ Công rằng: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn (mắc cạn). Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”. Mộc bản triều Nguyễn, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 154 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), chép tiếp: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái giếng, phái Tây Nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lí ba bình (tức là muôn dặm sóng êm). Cồn Bạch Sa có chu vi 1.070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía Bắc, giáp với cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoài (tức năm 1834), vua toan lập miếu, dựng bia chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá, phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về”.

Mộc bản triều Nguyễn, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 165 năm Minh Mạng thứ 17 (1836) ghi lại: “Bộ Công tâu: “Cương giới mặt biển ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi cũng chưa rõ ràng. Hàng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xem xét xứ ấy, chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”.

Vua y lời tâu, sai đội Suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho theo 10 cái bài gỗ đến nơi đó dựng làm dấu ghi. Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng lệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”.

Khảo lục trong Mộc bản triều Nguyễn, chưa có văn bản nào phản ánh việc tranh chấp với nhà Nguyễn về hai quần đảo Hoàng Sa và Hoàng Sa. Điều đó cho thấy chủ quyền của Việt Nam dưới triều Nguyễn về hai quần đảo này là rất rõ ràng. Bên cạnh đó, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được sách địa lý của triều Nguyễn miêu tả chi tiết đồng thời được đưa vào hải phận cụ thể của địa phương trực thuộc. Đại Nam nhất thống chí, một bộ sách địa lý nổi tiếng của triều Nguyễn đã đề cập rất rõ về hai quần đảo này. Mộc bản triều Nguyễn, sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 6 về tỉnh Quảng Ngãi có đoạn: “Đảo Hoàng Sa ở phía Đông cù lao Ré (tức đảo Lý Sơn) huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ đi thuyền ra, thuận gió thì độ ba bốn ngày đêm có thể đến nơi. Có đến hơn 130 đảo nhỏ cách nhau hoặc một ngày đường, hoặc mấy trống canh. Trong đó có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết hàng mấy ngàn dặm, bằng phẳng, rộng rãi, tục gọi là “Vạn lí Trường Sa”, nước ngọt trong, trên bãi có giếng nước ngọt, chim biển tụ tập không biết bao nhiêu cơ man nào. Sản vật nhiều ốc hoa, hải sâm, đồi mồi, vích cùng những hàng hóa của thuyền người Thanh bị bão trôi dạt vào đây.

Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 6, mặt khắc 18: Đảo Hoàng Sa ở phía Đông cù lao Ré (tức đảo Lý Sơn)

Hồi đầu bản triều có đặt đội Hoàng Sa, có 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào hàng năm, cứ tháng 3 là ra biển tìm kiếm sản vật, đến tháng 8 mang về cửa biển Tư Hiền để nộp, lại đặt đội Bắc Hải, do đội Hoàng Sa kiêm quản để đi lấy hải vật ở các đảo. Phía đông đảo Hoàng Sa gần phủ Quỳnh Châu đảo Hải Nam nước Thanh. Đầu đời Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ”. Đầu đời Minh Mệnh, thường sai người đi thuyền công đến đấy thăm dò đường biển. Năm Minh Mạng thứ 16, sai thuyền công chở gạch đá đến xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gạch sắt có đến hơn 2.000 cân.

Sách Quốc triều chính biên toát yếu cũng cho biết: “Lập đền thờ thần Hoàng Sa ở bãi biển tỉnh Quảng Ngãi. Bãi Hoàng Sa ngoài biển có một chỗ cây cối rậm tốt, trong cồn có giếng, phía tây nam có cổ miếu có bia khắc bốn chữ “Vạn lí ba bình”, ngài sai lập miếu dựng bia, đằng trước xây cái bình phong”.

“Khiển Thủy quân Suất đội Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền quan Quảng Ngãi, thẳng tới bãi Hoàng Sa, không lệ hòn cù lao nào, cồn cát nào, hễ dài ngang rộng bao nhiêu châu vi và bốn phía gần đó có đá mọc cát ngầm hay không; hình thế mấy chỗ ấy có hiểm hay không, từ cửa biển ra đó đàng thủy đi mấy dặm; đó gần bờ biển huyện nào làng nào; đến đâu khám rõ ràng, rồi cắm tiêu làm dấu, vẽ thành đồ bản đem về dâng lên ngài ngự lãm”…

(còn tiếp)